I. CHÂN THÀNH
1. Ý niệm:
Chân thành có nghĩa là luôn thành thật với
mọi người và với chính mình, trong cách cư xử, điệu bộ, và lời nói.
2. Thế nào là không chân thật:
a. Người ta có thể không chân thật
trong ngôn ngữ, cử chỉ, hành động,... như:
- trong ngôn ngữ: nói dối, nói
láo, thế gian...
- trong cử chỉ: cách ngó xem, đi
đứng, gỉa hình, giả bộ, “đóng kịch”...
- trong hành động: làm chứng
gian,viết sách, baó phổ biến sự dối trá,chơi “ăn gian” cóp bài, gian lận trong
công tác, kế toán tài chánh, văn hó, thương mại...
b. Nguyên nhân của dối trá:
Theo duprat và Vérel, không kể một số nhỏ dối
trá vì ác ý, còn phần lớn là dối trá do hai nguyên nhân chính là sợ sệt va khoe
khoang.
3. Lý do buộc ta phải giữ đức chân thành:
a. Về phương diện tự nhiên: Ta có tập được
đức tính chân thành thì mới được tín nhiệm trong xã hội và được mọi người quí
mến, vì ai cũng sợ hạng người “bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham
hiểm giết người không dao”.
b. Về phương diện siêu nhiên, chúng ta phải ăn ở
chân thành vì:
- Thiên Chúa, Cha chúng ta, Đấng là
chân lý, đã dậy chúng ta “có thì nói có, không thì nói không, mọi sự thêm
bớt đều do ma quỉ mà ra”
- Ai chân thành sẽ được sống trong tự
do: “sự thật sẽ cho các ngươi được tự do” (Ga 8, 32).
- Chúng ta có thể lừa dối người ta, nhưng
không thể lừa dối Thiên Chúa là Đấng phán xét ta trong ngày sau cùng được.
4. Ảnh hưởng ích lợi của chân thành và hậu qủa tai hại của
dối trá.
a. Người
sống chân thành luôn được mọi
người chung quanh tín nhiệm, khâm phục và quí mến, kể cả những kẻ gian dối cũng
kính trọng những người chân thành.
b. Người
chủ trương sống gian dối, xảo trá, thì
mọi người coi khinh, không tin tưởng và tìm cách lánh xa, kể cả những người gian dối cũng
không ưa sống với người gian dối. A. Lincoln có một câu nói bất hủ về người
gian dối: “Bạn có thể lường gạt mọi người trong một thời gian và lường gạt
vài người luôn mãi, song không thể lường gạt luôn mãi hết mọi người”.
II. TRUNG TÍN
1. Ý niệm:
Trung tín là ăn ở ngay thẳng, trước sau
như một, không thay lòng đổi dạ trước những thay đổi của cuộc đời.
Là Kitô hữu, Chúng ta phải trung tín
trước hết là đối với Thiên Chúa, với Giáo hội, rồi đến với tổ quốc và tha nhân.
2. Thế nào là trung tín với Thiên Chúa?
Ngày chịu phép Rửa tội, chúng ta đã thề
nguyền cùng Chúa sẽ khước từ satan cùng mọi sự giầu sang cua nó để quyết
tâm theo Ngài đến trọn đời. Vậy, trung tín với Thiên Chúa là:
- Cương quyết trung thành với lời đã tuyên hứa,
không bao giờ dám cố tình phạm một tội nào, dù là tội nhẹ.
- Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết
trí khôn, cùng yêu tha nhân như chính mình” (Mt 22, 37- 40)
3. Trung thành với Giáo hội:
- Gắn người bó với Chúa Kitô và hiệp nhất với Hội
thánh hoàn cầu.
- Gắn bó với Đức Giáo hoàng, vị Đại diện của Đức
Kitô, người được Chúa trao cho trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên của Người.
- Gắn bó với mọi chi thể của Hội thánh theo kiểu
mẫu Giáo hội sơ khai: “Chỉ có một tấm lòng, một linh hồn, không một người
nào nói là mình có của gì riêng, nhưng đối với họ mọi sự điều là của chung” (Cv 4,32; 2,42)
- Sống tinh thần của Công đồng Vat,II: cởi mở, đối
thoại, hòa mình với cộng đồng xã hội mình đang sống.
4. Trung thành với tổ quốc:
- Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo
vệ và xây dựng tổ quốc.
- Xây dựng một nết sống và một lối diễn tả
đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc.
5. Trung tín với tha nhân:
a. Trước khi muốn làm một việc gì, phải suy nghĩ cẩn thận
xem có khả năng thi hành không.
b. Đã hứa thì phải giữ, dầu thiệt cho ta đến mấy cũng
phải giữ.
“Uy tín của thủ lãnh là đồ bỏ đi, nếu thủ lãnh
hoang phí lời hứa và lời hay nuốt lời. Một thủ lãnh già giặn rất tiết kiệm lời
hứa, và khi đã hứa thì dù thế nào cũng giữ đúng” (Hoàng Xuân Việt)
III. TỰ TÍN
1. Ý niệm:
Tự tín là tin ở tài lực của mình trong
khi thực hiện một công việc nào đó. Tự tín làm cho ta được kính phục và thành
công, khác biệt với tự phụ , tự đắc hay tự mãn là những tính xấu chỉ làm cho ta
bị ghét bỏ và gặp thất bại do chủ quan và thất nhân tâm.
Con người tự tin, một khi nhận nhiệm
vụ, họ đặt hết tin tưởng một bên vào khả năng thực hiện của mình , và một bên
vào nhiệm vụ đã được uỷ thác. Và khi đã bắt tay vào việc là họ nỗ lực tiến cho
tới đích , triệt để vận dụng tài cán, năng lực để vượt qua những gian nan chồng
chất, những thử thách bủa vây, không tỏ ra chán nản, mất tinh thần, cho tới khi
công việc thành công.
2. Phương pháp rèn luyện:
a. Về mặt nhân bản:
- Dùng tự kỷ ám thị mà tiêu diệt tính tự ti
mặc cảm, như thánh Augustinô đã nói: “Ông nọ bà kia nên thánh được tại sao
tôi không”
- Luyện tập tự tín trong các việc nhỏ hằng ngày:
tập suy nghĩ, lượng địng công việc cũng như khả năng của mình và tìm kiếm những
phương tiện thích hợp, rồi mạnh dặn bắt tay vào thực hiện cho tới khi hoàn
thành, không bỏ dở nửa chừng. Nhờ thành công đôi lần, ta sẽ thêm lạc quan và
lòng tự tin cũng sẽ lớn mạnh lên.
- Lòng tự tin dễ gây cảm phục, cảm phục lôi kéo sự
bắt chước: ta nên thường giao tiếpvơí những người có lòng tự tin để tập nhiễm
thói quen tự tín của họ vào mình.
b. Về mặt siêu nhiên:
Tin rằng Thiên Chúa sẽ ban đầy ơn
cho ta khi thi hành những công việc bổn phận của mình, và không để ai chịu thử
thách qúa sức họ, ta sẽ thêm tự tín khi thực hiện công việc.
IV. TINH THẦN TRÁCH NHIỆM
1. Ý nghĩa:
Người ta có tinh thần trách nhiệm là người
khi đã đảm nhận một công việc nào, liền coi như mình đã cam kết sẽ hoàn thành
một cách chu đáo, và sẵn sàng chịu nhận mọi hậu quả của công việc mình làm
trước lương tâm mình.
2. Thế nào là người không có tinh thần trách nhiệm?
Có bốn loại người không có tinh thần
trách nhiệm:
a. Người sợ
trách nhiệm: là người nhút
nhát, chưa bắt tay vào đã sợ hỏng. Không dám làm, mà chỉ dám xúi người khách
làm.
b. Người tắc
trách: là người không chú tâm
thi hành nhiệm vụ, mà chỉ quấy quá cho xong, chứ không cố làm cho đến nơi đến
chốn.
c. Người đào
nhiệm: Là người bỏ nhiệm vụ
đã nhận lãnh vì một lý do không chính đáng, vì tình cảm, lợi lộc hoặc chính
kiến v.v...
d. Người phản
trắc: Là người vì kém tài,
không biết khắc phục khó khăn, vì sai lầm mà gây thiết hại hoặc thất bại v.v..
rồi không dám nhận lỗi mà đổ cho người khác, nhất là người dưới.
3. Giá trị tinh thần trách nhiệm:
a. Ích lợi của
tinh thần trách nhiệm: Bất cứ
một tổ chức nào, đoàn thể nào, nếu mọi phần tử đều có tinh thần trách nhiệm,
biết lo hoàn tất phận sự của mình một cách hoàn hảo, thì tổ chức đó sẽ được
tiến hành trong vòng trất tự, và dĩ nhiên sẽ thu hoạch được kết quả mỹ mãn.
b. Tai hại của
tính không trách nhiệm: Nếu
cấp trên cố gắng thi hành nhiệm vụ, còn cấp dưới tắc trách hay đào nhiệm, hoặc
tệ hơn, nếu xả cấp trên lẫn cấp dưới đều vô trách nhiệm, thì nhất định tổ chức
không phát triển được và không sớm thì muộn .