• Trang chủ

UBGLĐT-HĐGMVN - HDTQ VD GIÁO LÝ -PHẦN I-Chương 3


CHƯƠNG III: Bản chất, mục đích và những nhiệm vụ của việc dạy giáo lý 

“Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa “ (Pl 2,11).

77.       Sau khi đã xác định vị trí việc dạy giáo lý trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh, những tương quan của nó với những yếu tố khác nhau của việc rao giảng Tin Mừng và với những hình thức khác của tác vụ Lời Chúa, chương này nhằm suy tư cách đặc biệt về những điều sau:
- Tính Hội Thánh của việc dạy giáo lý, nghĩa là chủ thể hành động của việc dạy giáo lý: Hội Thánh được Thánh Thần tác động;
- Mục đích việc dạy giáo lý chủ yếu theo đuổi.
- Những nhiệm vụ nhờ đó việc dạy giáo lý thực hiện mục đích trên, làm thành những mục tiêu trước mắt;
- Tính cách tiệm tiến nội tại trong tiến trình dạy giáo lý và sự cảm hứng từ giáo lý dự tòng linh hoạt nó.
Ngoài ra, chương này đào sâu hơn đặc tính riêng biệt của việc dạy giáo lý, đã được mô tả ở chương trước, khi tìm hiểu những mối tương quan với những hoạt động khác của Hội Thánh.

Việc dạy giáo lý, một hoạt động mang tính Hội Thánh
78.       Việc dạy giáo lý là một hành vi chủ yếu mang tính Hội Thánh[1]. Hội Thánh là chủ thể thực sự của việc dạy giáo lý, tiếp tục sứ vụ của Thầy là Chúa Giêsu, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, đã được kêu gọi trở thành người giáo dục đức tin. Do đó, theo gương Mẹ Chúa Giêsu, Hội Thánh trung thành gìn giữ Phúc Âm trong lòng mình[2], rồi loan báo, cử hành, sống và rao truyền Phúc Âm đó bằng việc dạy giáo lý cho tất cả những ai quyết định đi theo Chúa Giêsu Kitô.
Việc rao giảng Tin Mừng là một sinh hoạt sống động của truyền thống Hội Thánh[3]:
- Thực vậy, Hội Thánh truyền đạt đức tin mà chính mình đã sống: sự hiểu biết mầu nhiệm Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Ngài; cái nhìn về ơn gọi rất cao cả của con người; lối sống Tin Mừng để truyền thông niềm vui Nước Trời, niềm hy vọng tràn ngập; tình yêu thương đối với nhân loại và đối với tất cả thụ tạo của Thiên Chúa.
- Hội Thánh truyền đạt đức tin một cách sống động, gieo đức tin vào lòng những người dự tòng và những người học giáo lý, để làm phong phú những kinh nghiệm sâu xa nhất của họ[4]. Việc tuyên xưng đức tin đã lãnh nhận qua Hội Thánh (“traditio”), bằng cách gieo và làm cho nó lớn lên trong suốt tiến trình dạy giáo lý (“redditio”), được khôi phục, được nên phong phú nhờ những giá trị của các nền văn hóa khác nhau[5]. Vì thế, thời kỳ dự tòng trở thành trung tâm cơ bản của việc phát huy tính Công giáo và trở thành một thứ men canh tân Hội Thánh.
79.       Khi truyền đạt đức tin và đời sống mới, qua việc khai tâm Kitô giáo,  Hội Thánh đã hành động như một người mẹ của loài người là sinh những người con được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và được sinh ra do Thiên Chúa[6]. Nói đúng hơn “vì là mẹ chúng ta, nên Hội Thánh cũng là người giáo dục đức tin của chúng ta”[7]. Hội Thánh vừa là mẹ vừa là người giáo dục. Nhờ việc dạy giáo lý, Hội Thánh nuôi dưỡng con cái bằng chính đức tin của mình và tháp nhập họ vào gia đình Hội Thánh. Với tư cách là người mẹ đầy lòng nhân hậu, Hội Thánh cung cấp Tin Mừng với tất cả sự toàn vẹn và nguyên tuyền của nó, như là của ăn thích hợp, đã được văn hóa làm phong phú, như một đáp ứng cho những ước vọng sâu xa nhất của lòng người.
Mục đích của việc dạy giáo lý : hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô.
80.       “ Mục đích tối hậu của việc dạy giáo lý là làm cho con người không những được tiếp xúc, mà còn được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô”[8].
Tất cả các hoạt động loan báo Tin Mừng phải nhằm giúp cho việc hiệp thông với Đức Kitô. Khởi đi từ lần hoán cải “đầu tiên”[9] của một người với Chúa, do tác động của Chúa Thánh Thần với lời loan báo đầu tiên, việc dạy giáo lý cung cấp một nền tảng cho sự gắn bó ban đầu và làm cho nó trưởng thành hơn. Vấn đề là giúp một người mới trở lại “...biết rõ hơn về Chúa Giêsu, Đấng mà họ đã phó thác, biết “mầu nhiệm” của Người, Vương quốc Thiên Chúa mà Người loan báo, các đòi hỏi và những lời hứa chứa đựng trong sứ điệp Tin Mừng, các nẻo đường mà Người đã vạch ra cho ai muốn theo Người”[10]. Phép Rửa tội là bí tích “làm chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô”[11] và nâng đỡ việc dạy giáo lý bằng ân sủng.
81.       Nhờ tính năng động nội tại, sự thông hiệp với Chúa Giêsu Kitô thúc đẩy người môn đệ kết hợp với tất cả những gì mà chính Người đã kết hợp sâu xa: với Thiên Chúa, là Cha Người, Đấng đã sai Người vào thế gian; với Chúa Thánh Thần, Đấng đã cho Người sự nhiệt tình đối với sứ mạng; với Hội Thánh là nhiệm thể của Người, mà vì Hội Thánh Người đã trao nộp mình; và với nhân loại là anh em mà Người đã muốn chia sẻ thân phận.

Mục đích của việc dạy giáo lý được diễn tả trong việc tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa duy nhất là Cha, Con và Thánh Thần.
82.       Việc dạy giáo lý là một hình thức đặc biệt của tác vụ Lời Chúa làm cho sự hoán cải ban đầu được hoàn hảo, làm cho việc tuyên xưng đức tin trở nên sống động, minh nhiên và hữu hiệu: “Việc dạy giáo lý nảy sinh từ việc tuyên xưng đức tin và dẫn đến việc tuyên xưng đức tin”[12].
Lời tuyên xưng đức tin khi chịu phép Rửa tội[13] là lời tuyên xưng tuyệt vời về Chúa Ba Ngôi. Hội Thánh làm Phép Rửa “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28, 19)[14], Thiên Chúa duy nhất và là Ba Ngôi, Đấng mà người Kitô hữu phó thác cả cuộc đời. Trước và sau bí tích Rửa Tội, việc dạy giáo lý khai tâm đều chuẩn bị cho sự dấn thân dứt khoát đó. Việc dạy giáo lý thường xuyên sẽ giúp cho việc tuyên xưng đức tin được trưởng thành, giúp tuyên xưng đức tin trong Bí tích Thánh Thể và giúp làm mới lại những cam kết bao hàm trong lời tuyên xưng ấy. Điều quan trọng là việc dạy giáo lý phải biết tạo ra mối liên kết giữa việc tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô, “Đức Giêsu là Chúa” và việc tuyên xưng Chúa Ba Ngôi, “Tôi tin kính Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, bởi vì đó là hai cách biểu thị cùng một đức tin Kitô giáo. Ai đã trở về với Đức Kitô trong lần loan báo đầu tiên và nhìn nhận Người là Chúa, thì nhờ việc học giáo lý họ đã khởi sự một tiến trình tất yếu dẫn đến việc tuyên xưng Ba Ngôi một cách minh nhiên.
Nhờ việc tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa duy nhất, người Kitô hữu từ bỏ phục vụ tất cả những cái tuyệt đối khác của con người: quyền lực, khoái lạc, chủng tộc, tổ tiên, quê hương, tiền bạc...,[15] và tự giải phóng mình khỏi mọi ngẫu tượng khiến họ thành nô lệ. Không gì ngăn trở họ biểu lộ ý muốn phụng sự Thiên Chúa và con người. Khi tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi, sự thông hiệp của các ngôi vị, người môn đệ của Chúa Giêsu Kitô cũng biểu lộ rằng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân là nguyên lý hình thành sự hiện hữu và hành động của họ.
83.       Việc tuyên xưng đức tin chỉ hoàn hảo khi quy chiếu vào Hội Thánh. Mỗi người chịu Phép Rửa tội đọc kinh Tin kính một mình, vì không có hành vi nào mang tính cá nhân hơn hành vi này. Nhưng người ấy đọc kinh đó trong Hội Thánh và qua trung gian của Hội Thánh, với tư cách là một thành viên của Hội Thánh. Lời tuyên xưng “tôi tin” và “chúng tôi tin” bao hàm lẫn nhau[16]. Vì đặt nền tảng việc tuyên xưng đức tin của mình trên sự tuyên xưng của Hội Thánh, người Kitô hữu gia nhập vào sứ vụ của Hội Thánh: trở thành “bí tích cứu độ phổ quát” cho sự sống thế gian. Người tuyên xưng đức tin nhận lấy những cam kết, mà thường mang lại sự bách hại. Trong lịch sử Kitô giáo, những người loan báo và những người làm chứng tiêu biểu nhất là các vị tử đạo[17].
Những nhiệm vụ của việc dạy giáo lý thực hiện mục đích của mình.
84.       Mục đích của việc dạy giáo lý đạt được qua các nhiệm vụ khác nhau nhưng bao hàm lẫn nhau[18]. Để đem chúng ra thực hành, việc dạy giáo lý sẽ dựa vào phương pháp mà Chúa Giêsu đã theo để huấn luyện các môn đệ của Người: Người làm cho họ hiểu biết những chiều kích khác nhau của Vương Quốc Thiên Chúa (“Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời”- Mt 13,1);[19] Người đã dạy họ cầu nguyện (“Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: lạy Cha...”- Lc 11,2);[20] Người đã đề nghị với họ những thái độ sống Tin Mừng (“Anh em hãy học với Tôi vì Tôi hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”- Mt 11,29), Người hướng dẫn họ vào việc truyền giáo (“Người sai các ông cứ từng hai người một...”- Lc 10,1)[21].
 Những nhiệm vụ của việc dạy giáo lý tương ứng với việc giáo dục các chiều kích khác nhau của đức tin, bởi vì dạy giáo lý là một cuộc đào tạo Kitô giáo toàn diện, “khai mở hết mọi nhân tố của đời sống Kitô hữu”[22]. Do tính cách năng động nội tại, đức tin đòi phải được nhận biết, được cử hành, được sống và được chuyển thành kinh nguyện. Việc dạy giáo lý phải cổ võ từng chiều kích đó. Nhưng đức tin được sống trong cộng đoàn Kitô hữu và được giới thiệu trong việc truyền giáo: đó là một đức tin được chia sẻ và được rao giảng. Những chiều kích này cũng phải được khuyến khích bởi việc dạy giáo lý.
Công Đồng Vaticanô II đã diễn tả những nhiệm vụ đó như sau: “Việc dạy giáo lý phải soi sáng và củng cố đức tin, nuôi dưỡng đời sống theo Thần Khí của Đức Kitô, đưa đến việc tham dự ý thức và linh động vào mầu nhiệm phụng vụ, khuyến khích hoạt động tông đồ”[23].
Những nhiệm vụ cơ bản của việc dạy giáo lý: giúp nhận biết, cử hành và chiêm ngắm mầu nhiệm Đức Kitô.
85.       Những nhiệm vụ cơ bản của việc dạy giáo lý là:
- Giúp hiểu biết đức tin.
Ai đã gặp Đức Kitô luôn mong được biết Người rõ hơn, cũng như mong được biết kế hoạch của Chúa Cha mà Người đã mạc khải. Việc gắn bó với đức tin (fides qua) đòi hỏi sự hiểu biết các nội dung đức tin (fides quae).[24] Cũng như trên bình diện con người, khi yêu ai, người ta mong muốn biết người ấy ngày càng rõ hơn. Vì vậy, việc dạy giáo lý phải dẫn tới việc làm cho “thấu hiểu dần dần toàn bộ sự thật về kế hoạch của Thiên Chúa”,[25] bằng cách đào tạo những môn đệ Đức Kitô về kiến thức Thánh Kinh và Thánh Truyền là “khoa học siêu việt của Chúa Giêsu Kitô“ (Ph 3,8).[26]
Việc đào sâu kiến thức đức tin chiếu ánh sáng Kitô giáo trên đời sống con người, nuôi dưỡng đời sống đức tin và cho phép giải thích đức tin cho thế giới. Việc trao kinh Tin Kính, tổng hợp của Thánh Kinh và đức tin của Hội Thánh, diễn tả việc thực thi nhiệm vụ đó.
- Giáo dục phụng vụ.
Quả thực, “Đức Kitô hằng hiện diện trong Hội Thánh, nhất là trong các hoạt động phụng vụ”[27]. Sự hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô đưa đến việc cử hành sự hiện diện cứu độ của Người trong các bí tích, đặc biệt Bí tích Thánh Thể. Hội Thánh tha thiết ước mong toàn thể các tín hữu được dẫn vào việc tham dự trọn vẹn, ý thức và linh động này mà chính bản chất của phụng vụ cũng như phẩm cách của chức tư tế cộng đồng đòi hỏi[28]. Vì vậy, việc dạy giáo lý không những phải giúp hiểu biết ý nghĩa của phụng vụ và các bí tích, mà còn phải dạy các môn đệ của Chúa Giêsu Kitô “cầu nguyện, tạ ơn, sám hối, biết cầu nguyện với niềm tín thác, tinh thần cộng đoàn, ngôn ngữ của các biểu tượng...”;[29] tất cả những điều đó cần thiết cho đời sống phụng vụ đích thực.
- Huấn luyện luân lý.
Trở lại với Chúa Giêsu Kitô bao hàm việc bước theo Người. Vì vậy, việc dạy giáo lý phải truyền đạt cho các môn đệ chính những thái độ sống của vị Tôn Sư. Như thế, họ phải đi theo một lộ trình biến đổi nội tâm nhờ tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa, họ “vượt từ con người cũ tới con người mới trong Đức Kitô”[30]. Bài giảng trên núi, trong đó Chúa Giêsu nhắc lại Thập Giới và ghi dấu tinh thần Bát Phúc vào đó,[31] là một tham chiếu không thể bỏ qua trong việc giáo dục luân lý, rất cần thiết cho ngày nay. Việc loan báo Tin Mừng, “bao gồm cả sự loan báo và đề nghị về đời sống luân lý”[32], tỏa ra tất cả sức mạnh lôi cuốn của mình khi lời loan báo là lời đã được sống. Chứng cứ luân lý mà việc dạy giáo lý chuẩn bị phải biết đề cao những hệ quả xã hội mà Tin Mừng đòi hỏi[33].
- Dạy cầu nguyện.
Sự hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô đưa các môn đệ đến việc nhận lấy chính thái độ cầu nguyện và chiêm niệm của Tôn Sư. Học cầu nguyện với Chúa Giêsu là cầu nguyện bằng chính những tâm tình mà Người đã bày tỏ khi thân thưa với Chúa Cha: thờ lạy, ngợi khen, tạ ơn, tâm tình phó thác của người con, van nài, ngưỡng mộ vinh quang của Cha. Những tâm tình đó được phản ánh trong kinh Lạy Cha là kinh Chúa Giêsu dạy các môn đệ và là mẫu mực của tất cả kinh nguyện Kitô giáo. Vì thế, “việc trao kinh Lạy Cha”[34], một tổng hợp toàn bộ sách Tin Mừng[35], là sự diễn tả xác thực việc hoàn tất nhiệm vụ này. Khi việc dạy giáo lý được thực hiện trong bầu khí cầu nguyện thì việc tập sống đời Kitô hữu đạt được tất cả chiều sâu của nó. Bầu khí này trở nên đặc biệt cần thiết khi người dự tòng và những người học giáo lý phải đối diện với những khía cạnh đòi hỏi nhất của Tin Mừng và khi cảm thấy mình yếu hèn, hay khi ngỡ ngàng khám phá ra hoạt động của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Những nhiệm vụ cơ bản khác của việc dạy giáo lý: khai tâm, giáo dục đời sống cộng đoàn và truyền giáo.
86.       Việc dạy giáo lý mang lại cho người Kitô hữu  khả năng sống cộng đoàn, tham gia cách tích cực vào đời sống và sứ mệnh của Hội Thánh. Với các mục tử, Công Đồng Vaticanô II nhấn mạnh đến sự cần thiết “phát huy tinh thần cộng đoàn đích thực ”[36] và với các dự tòng, Công Đồng cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết “học biết cộng tác tích cực vào việc rao giảng Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh”.[37]
- Giáo dục đời sống cộng đoàn.
a) Đời sống Kitô hữu trong cộng đoàn không phải là ngẫu hứng nhưng phải được giáo dục cẩn thận. Trong việc rèn luyện này, giáo huấn của Chúa Giêsu về đời sống cộng đoàn đã được tường thuật lại trong tin mừng theo thánh Matthêu, đòi hỏi một số thái độ mà việc dạy giáo lý buộc phải ghi khắc: tinh thần đơn sơ và khiêm nhường: (“nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em ...”- Mt 18,3); quan tâm đến những người bé mọn nhất (“ai làm cớ cho một trong kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã…”- Mt 18,6); lưu tâm cách riêng đến những người lầm lạc (“đi tìm con chiên lạc”- Mt 18,12); sửa lỗi anh em (“anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi” - Mt 18,15); cầu nguyện chung (“nếu hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì”- Mt 18,19); tha thứ cho nhau (“đến bảy mươi lần bảy...”- Mt 18,22); đức bác ái huynh đệ gồm tóm tất cả những thái độ này (“anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em”- Ga 13,34).
b) Khi giáo dục tinh thần cộng đoàn, việc dạy giáo lý cũng sẽ chăm lo đến chiều kích đại kết và khuyến khích thái độ huynh đệ đối với những thành viên của các Giáo Hội và các cộng đoàn Kitô hữu khác. Với mục đích này, việc dạy giáo lý sẽ trình bày rõ nét toàn bộ giáo thuyết của Hội Thánh Công Giáo bằng cách tránh những diễn tả hay những khai triển có nguy cơ dẫn đến sai lạc. Lại nữa, việc dạy giáo lý sẽ giúp cho có “một sự hiểu biết đúng đắn về các tuyên xưng đức tin khác”[38], các tuyên xưng đức tin này vẫn có những điều thiện hảo chung như là “Lời Chúa đã được ghi chép, đời sống ân sủng, đức tin, đức cậy, đức mến, và những ân huệ nội tâm khác của Chúa Thánh Thần“[39]. Việc dạy giáo lý sẽ có một chiều kích đại kết trong mức độ nó biết khơi dậy và nuôi dưỡng “ước muốn hiệp nhất đích thực”[40], không phải nhằm một thái độ hòa giải dễ dãi, nhưng nhằm hiệp nhất hoàn toàn, khi Chúa muốn và bằng con đường Chúa muốn.
- Khai tâm cho việc truyền giáo.
a) Việc dạy giáo lý cũng mở ra cho sự năng động truyền giáo[41] và cố gắng làm thế nào để các môn đệ Chúa Giêsu biết hiện diện với tư cách là người Kitô hữu trong xã hội, trong đời sống nghề nghiệp, văn hóa và xã hội. Nó cũng chuẩn bị cho họ cộng tác trong các việc phục vụ khác nhau của Hội Thánh, tùy theo ơn gọi của mỗi người. Sự dấn thân cho việc rao giảng Tin Mừng nơi các tín hữu giáo dân phát xuất từ các bí tích khai tâm Kitô giáo và từ tính cách trần thế ơn gọi của họ[42]. Điều cũng quan trọng là dùng đủ mọi cách nhằm khơi dậy ơn gọi linh mục và sự tận hiến đặc biệt cho Thiên Chúa trong các hình thức tu trì và tông đồ khác nhau nhằm đốt lên trong sâu thẳm các tâm hồn những ơn gọi truyền giáo chuyên biệt.
Những thái độ Tin Mừng mà Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ khi Người hướng dẫn họ bước đầu vào việc truyền giáo là những thái độ mà việc dạy giáo lý  phải cổ võ: đi tìm con chiên lạc, rao giảng và đồng thời chữa lành, phải sống nghèo, không vàng bạc cũng không túi xách, phải biết chấp nhận bị khai trừ và bách hại, đặt niềm tin cậy vào Chúa Cha và sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần, không mong đợi một phần thưởng nào ngoài niềm vui được làm việc cho Nước Chúa[43].
b) Khi giáo dục theo chiều hướng truyền giáo này, việc dạy giáo lý sẽ hình thành cuộc đối thoại liên tôn, có thể mang lại cho người tín hữu khả năng hiệp thông một cách có hiệu quả với những người thuộc các tôn giáo khác[44]. Việc dạy giáo lý phải cho thấy rằng mối liên hệ của Hội Thánh với những tôn giáo ngoài Kitô giáo, trước hết là mối liên hệ về nguồn gốc và định mệnh chung của loài người, cũng như mối liên hệ của rất nhiều “hạt giống Lời Chúa” đã được Ngài đặt để vào các tôn giáo này. Việc dạy giáo lý cũng sẽ giúp để biết dung hòa và đồng thời biết phân biệt: “sự loan báo Đức Kitô” và “sự đối thoại liên tôn”. Hai yếu tố này, mặc dầu liên kết mật thiết, nhưng không được lẫn lộn cũng như không được coi là tương đương[45]. Thực vậy, “việc đối thoại không miễn trừ cho việc rao giảng Tin Mừng”[46].

Một vài nhận định về toàn bộ các nhiệm vụ này.
87.       Vì vậy, các nhiệm vụ của việc dạy giáo lý làm thành một tổng hợp với những khía cạnh phong phú và đa dạng, đáng để có một vài nhận xét sau:
- Các nhiệm vụ đều rất cần thiết. Cũng như cơ thể con người muốn sống thì tất cả các cơ quan của nó phải hoạt động, đời sống Kitô hữu muốn đạt tới sự trưởng thành cũng cần phải vun trồng mọi chiều kích: kiến thức đức tin, đời sống phụng vụ, huấn luyện luân lý, việc cầu nguyện, gia nhập cộng đoàn, tinh thần truyền giáo. Nếu việc dạy giáo lý mà coi thường chỉ một trong những chiều kích này, thì đức tin Công giáo sẽ không thể đạt được sự phát triển trọn vẹn.
- Mỗi nhiệm vụ theo cách của mình thực hiện mục đích của việc dạy giáo lý. Chẳng hạn việc huấn luyện luân lý chủ yếu là về Kitô học và Ba Ngôi, ý nghĩa đầy đủ về Hội Thánh và mở ra chiều kích xã hội. Cũng như việc giáo dục phụng vụ, chủ yếu là về tôn giáo và Hội Thánh, nhưng cũng rất đòi hỏi sự dấn thân vào việc rao giảng Tin Mừng cho thế giới.
- Những nhiệm vụ ấy phải đan quyện với nhau và cùng phát triển. Mỗi chủ đề lớn về giáo lý, chẳng hạn giáo lý về Chúa Cha phải có chiều kích về kiến thức và về những mối liên quan luân lý, phải được nội tâm hóa trong cầu nguyện và được đảm nhận bằng đời sống chứng tá. Nhiệm vụ này kéo theo nhiệm vụ khác: kiến thức đức tin mang lại khả năng truyền giáo, đời sống bí tích ban sức mạnh cho sự biến đổi đời sống luân lý.
- Để thực hiện những nhiệm vụ của mình, việc dạy giáo lý cần đến hai phương tiện lớn: truyền đạt sứ điệp Tin Mừng và kinh nghiệm đời sống Kitô hữu[47]. Chẳng hạn trong việc giáo dục phụng vụ, phải giải thích phụng vụ Kitô giáo là gì và các bí tích là gì, nhưng cũng phải làm cho học viên có kinh nghiệm về những cách cử hành khác nhau, giúp khám phá và yêu mến các biểu tượng, ý nghĩa của các cử điệu... Trong việc huấn luyện luân lý, không phải chỉ truyền đạt nội dung luân lý Kitô giáo, mà còn phải vun trồng cách tích cực các thái độ Tin Mừng và những giá trị Kitô giáo.
- Phải giáo dục những chiều kích khác nhau của đức tin dưới khía cạnh “ân sủng”, cũng như dưới khía cạnh “dấn thân”, bổn phận. Kiến thức đức tin, đời sống phụng vụ, “bước theo Đức Kitô”, mỗi thứ vừa là ân ban của Chúa Thánh Thần nhận được trong việc cầu nguyện  vừa là một thúc đẩy học hỏi trên bình diện thiêng liêng, luân lý và chứng tá. Phải trau dồi cả hai mặt[48].
- Mỗi chiều kích đức tin, cũng như chính đức tin trong tổng thể, phải ăn rễ sâu vào kinh nghiệm con người, chứ không là một yếu tố thêm vào hay đơn độc; kiến thức đức tin đầy đủ ý nghĩa soi sáng cho mọi hiện hữu và đối thoại với văn hoá; trong phụng vụ, tất cả đời sống cá nhân là một lễ vật thiêng liêng; luân lý của Tin Mừng đảm nhận và thăng hoa mọi giá trị nhân bản; sự cầu nguyện mở ra cho mọi vấn đề cá nhân và xã hội[49].
Như cuốn Hướng Dẫn năm 1971 đã chỉ rõ, “điều rất quan trọng là việc dạy giáo lý phải bảo toàn sự phong phú của các phương diện khác nhau này, làm sao cho không một phương diện nào bị lẻ loi gây thiệt hại cho các phương diện khác“[50].
Giai đoạn dự tòng: cấu trúc và tiệm tiến.
88.       Đức tin được ơn Chúa linh hoạt và được hoạt động của Hội Thánh nuôi dưỡng trải qua một tiến trình trưởng thành. Việc dạy giáo lý, nhằm phục vụ cho việc tăng trưởng đó, phải là một hoạt động tiệm tiến. Việc dạy giáo lý đúng lúc phải được thực hiện theo từng bước[51].
Trong thời kỳ dự tòng, việc đào tạo tiến triển từng chặng theo bốn giai đoạn:
- Thời tiền dự tòng,[52] là thời loan báo Tin Mừng đầu tiên nhằm việc trở lại, trong thời gian này người ta giải thích lời loan báo đầu tiên (kerygma).
- Thời dự tòng[53]là thời được dành cho việc dạy toàn bộ giáo lý và ngay từ đầu thời kỳ này là “việc trao sách Tin Mừng”[54].
- Thời thanh luyện và soi sáng[55] là thời chuẩn bị quyết liệt nhất về các bí tích khai tâm, trong giai đoạn này có việc trao “kinh Tin Kính”[56] và “kinh Lạy Cha”[57].
- Thời nhiệm huấn (mystagogie),[58] được làm rõ nét bằng kinh nghiệm về các bí tích và việc gia nhập cộng đoàn.
 89.      Theo sự khôn ngoan của truyền thống lâu đời về việc huấn luyện dự tòng, các giai đoạn này soi sáng cho tính tiệm tiến của việc dạy giáo lý[59]. Thực vậy, thời các Giáo phụ, việc huấn luyện dành riêng cho dự tòng là dạy Giáo Lý Thánh Kinh, tập trung vào việc thuật lại Lịch sử Cứu độ; chuẩn bị trực tiếp cho phép Rửa tội là việc dạy giáo lý giáo thuyết, giải thích kinh Tin Kính và Kinh Lạy Cha mà họ vừa được trao, cũng như những mối liên quan luân lý của chúng; và giai đoạn tiếp theo các bí tích khai tâm là việc dạy giáo lý nhiệm huấn giúp nội tâm hoá các bí tích này và giúp hòa nhập vào cộng đoàn. Quan niệm giáo phụ này vẫn tiếp tục là nguồn soi sáng cho thời dự tòng hiện nay và cho việc dạy giáo lý khai tâm.
Việc dạy giáo lý khai tâm, vì đi theo tiến trình hoán cải nên chủ yếu là tiệm tiến và vì phục vụ người đã quyết định theo Chúa Giêsu Kitô nên phải hoàn toàn quy Kitô.
Giai đoạn dự tòng là nguồn cảm hứng cho việc dạy giáo lý trong Hội Thánh.
90.       Sứ mệnh đến với muôn dân xét là kiểu mẫu của mọi hoạt động truyền giáo của Hội Thánh thì giai đoạn giáo lý dự tòng, vốn gắn liền với nó, phải là kiểu mẫu mà hoạt động giáo lý mô phỏng theo[60]. Vì vậy, điều quan trọng là nhấn mạnh đến những yếu tố của thời dự tòng gợi ý cho việc dạy giáo lý hiện nay, đồng thời cũng phải lưu ý đến những ý nghĩa của gợi ý này. Tuy nhiên, phải nói lên rằng có một sự khác biệt cơ bản giữa những người học giáo lý và những người dự tòng[61] và cũng thế, giữa việc dạy giáo lý sau rửa tội và việc dạy giáo lý trước rửa tội vốn được dành cho họ. Những người trước đã nhận lãnh các bí tích khai tâm, họ “được đưa vào Hội Thánh rồi và đã trở thành con Chúa bởi phép Rửa tội. Như vậy, nền tảng việc trở lại của họ là phép Rửa tội đã lãnh nhận mà họ phải phát huy hiệu năng của bí tích ấy”[62].
91.       Trước sự khác biệt căn bản này, giờ đây thật là  hữu ích nếu xem xét một vài yếu tố của thời dự tòng như là những yếu tố gợi ý cho việc dạy giáo lý sau rửa tội.
- Thời dự tòng không ngừng nhắc nhở cho toàn thể Hội Thánh tầm quan trọng cơ bản của chức năng khai tâm, với những nhân tố nền tảng hình thành nên nó: việc dạy giáo lý và các bí tích Rửa tội, Thêm sức và Thánh thể. Mục vụ khai tâm Kitô giáo là yếu tố sống còn cho mỗi Giáo Hội địa phương.
- Thời dự tòng là trách nhiệm của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu. Thực vậy, “việc khai tâm Kitô giáo không phải chỉ là việc riêng của giáo lý viên hay của các linh mục, mà còn là việc của toàn thể cộng đoàn tín hữu, nhất là những người đỡ đầu”[63]. Sự thiết lập thời dự tòng như vậy làm tăng ý thức tình mẫu tử thiêng liêng mà Hội Thánh phải thực hành trong mọi hình thức giáo dục đức tin[64].
- Thời dự tòng phải được thấm nhuần mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Vì thế, “mọi tiến trình khai tâm phải biểu lộ rõ ràng đặc tính vượt qua”[65]. Đêm Vọng Phục sinh, trung tâm của phụng vụ Kitô giáo và linh đạo Phép Rửa là một nguồn cảm hứng cho toàn bộ việc dạy giáo lý.
- Thời dự tòng cũng là giai đoạn đầu tiên của việc hội nhập văn hóa. Theo gương Mầu nhiệm Nhập thể của Con Một Thiên Chúa làm người vào một thời điểm lịch sử cụ thể, Hội Thánh đã đón nhận các dự tòng như họ là, với những ràng buộc văn hoá của họ. Tất cả hoạt động giáo lý tham dự vào chức năng này là sát nhập “những hạt giống Lời Chúa đích thực” được gieo vãi nơi các cá nhân và các dân tộc[66] vào tính Công giáo của Hội Thánh.
- Sau cùng, quan niệm thời dự tòng như là “một tiến trình đào tạo và là trường học đích thực của đức tin” chính là cung cấp cho việc dạy giáo lý sau phép rửa một sự năng động và các đặc điểm riêng: tính mãnh liệt và toàn diện của việc đào tạo, tính tiệm tiến với các giai đoạn rõ ràng, sự liên hệ với các nghi thức, những biểu tượng và những dấu chỉ, đặc biệt về Thánh Kinh và phụng vụ, sự quy chiếu thường xuyên vào cộng đoàn Kitô hữu...
Việc dạy giáo lý sau rửa tội, không bắt chước y nguyên cấu trúc của thời dự tòng và vì biết những học viên đã được Rửa tội, nên sẽ dựa theo “trường học chuẩn bị vào đời sống Kitô hữu” này[67] để làm cho mình phong phú nhờ những yếu tố chính yếu của thời dự tòng.



[1]Xem điều đã chỉ rõ ở chương 1 của phần này, trong “Sự truyền đạt Mạc khải bởi Hội Thánh, công trình của Chúa Thánh Thần”,  và trong phần hai của chương 1, trong “Đặc tính Hội Thánh của sứ điệp Tin Mừng”. X. EN 60 đề cập đến đặc tính Hội Thánh trong mọi hành vi loan báo Tin Mừng.
[2]x. LG 64 ; DV 10a.
[3]x. DGC (1971) 13.
[4]x. AG 22a.
[5]x. CT 28, RICA 25 và 183-187. Hạn từ traditio-redditio symboli (trao và trả lại kinh tin kính) từ trước đến nay vẫn là một yếu tố quan trọng của thời kỳ dự tòng chịu phép rửa tội. Tính lưỡng cực của cử chỉ ấy diễn tả chiều kích kép của đức tin: ân huệ được lãnh nhận (traditio) và sự đáp trả bản thân và hội nhập văn hóa (redditio). x. CT 28 về “việc sử dụng thích hợp rộng rãi hơn”, trong việc dạy giáo lý, nghi thức rất ấn tượng này.
[6]x. LG 64.
[7]x. CEC 169. Mối tương quan giữa vai trò làm mẹ và làm nhà giáo dục của Hội Thánh đã được thánh Giêgôriô Cả biểu thị một cách rất tài tình như sau: “sau khi đã cưu mang con cái mình nhờ tác vụ rao giảng, Hội Thánh đã giáo huấn chúng để cho chúng lớn lên trong lòng dạ mình” (Moralia in Job, XIX, 12: CCL 143a, 970)

[8]CT 5: x. CEC 426; AG 14a. Liên kết với mục tiêu Kitô học này của việc dạy giáo lý, xem ở trên phần I, ch.1: “Chúa Giêsu Kitô là trung gian và viên mãn của toàn thể Mạc khải”, và xem phần II, ch. 1: “Tính cách quy Kitô của sứ điệp Tin Mừng”.
[9]AG 13b.
[10]CT 20c.
[11]LG 7b.
[12]MPD 8 và x. CEC 185-187.
[13]x. CEC 189.
[14]x. CEC 189-190 và 197.
[15]x. CEC 2113.
[16]x. CEC 166-167; CEC 196.
[17]x. RM 45.
[18]DGC (1971) 21-29 cũng phân biệt cứu cánh (finis) và những công việc (munera) của việc dạy giáo lý. Những công việc này là những mục tiêu đặc biệt trong đó cứu cánh được cụ thể hóa.
[19]x. Mc 4,10-12.
[20]x. Mt 6,5-6.
[21]x. Mt 10,5-15.
[22]CT 21 b.
[23]GE 4; x. RICA 19; CIC 788, 2.
[24]x. DGC (1971) 36a.
[25]DGC (1971) 24.
[26]DV 25a.
[27]SC 7.
[28]x. SC 14.
[29]DGC (1971) 25b ; x. SC 19.

[30]AG 13.
[31]x. LC 62; CEC 1965-1986. CEC 1697 xác định rõ những đặc tính mà việc dạy giáo lý phải có trong việc giáo dục luân lý.
[32]VS 107.
[33]x. CT 29f.
[34]RICA 25 và 188-191.
[35]x. CEC 2761.
[36]PO 6d.
[37]AG 14d.
[38]DGC (1971) 27 .
[39]UR 3b.
[40]CT 32; x. CEC 821; CT 32-34.
[41]x. CT 24 b và DGC (1971) 28.
[42]x. LG 31 b và ChL 15; CEC 898-900.
[43]x. Mt 10,5-42 và Lc 10,1-20.
[44]x. EN 53 và RM 55-57.
[45]x. RM 55b;  HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG CHO VIỆC ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN VÀ THÁNH BỘ RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO CÁC DÂN TỘC, Huấn thị Dialogue et Annonce. Réflexions et orientations (Đối thoại và Loan báo. Suy tư và định hướng) về việc “rao giảng Tin Mừng và Đối thoại liên tôn” (19/5/1991), các số 14-54; AAS 84 (1992) tr. 419-432; CEC 839-845; phần thứ tư lặp lại đề tài này, ở chương 4 về những đối tượng của việc dạy giáo lý trong mục “Việc dạy giáo lý trong bối cảnh các tôn giáo khác”.
[46]RM 55a.
[47]x. CIC 773 và 788,2.
[48]x. DGC (1971) 22 và 23.
[49]x. DGC (1971) 26.
[50]DGC (1971) 31b.
[51]x. RICA 19.
[52]RICA 9-13.
[53]RICA 14-20; 68-72; 98-105.
[54]RICA 93; x. MPD 8c.
[55]RICA 21-26; 133-142; 152-159.
[56]RICA 25 và 183-187.
[57]RICA 25 và 188-192.
[58]RICA 37-40; 235-239.
[59]Tính tiệm tiến đó cũng được thấy trong những danh xưng mà Hội Thánh dùng để chỉ những người theo những giai đoạn khác nhau của thời dự tòng chịu phép rửa tội: “cảm tình viên” (RICA 12) người đã hướng chiều về đức tin tuy họ tin chưa đầy đủ; “dự tòng” (RICA 17-18) người đã quyết định theo Chúa Giêsu cách chắc chắn; “người được tuyền chọn”, hay “người đồng chí hướng” (RICA 24) những người đã được mời gọi nhận phép rửa tội; “tân tòng” (RICA 31-36) người vừa mới sinh lại trong ánh sáng ân sủng của bí tích rửa tội; “tín hữu Kitô” (RICA 39), người đã trưởng thành đức tin và đã là thành viên tích cực trong cộng đoàn Kitô hữu.
[60]x. MDP 8; EN 44; ChL 61.
[61]Trong cuốn Hướng Dẫn Tổng Quát Việc Dạy Giáo Lý này  người ta phân biệt các thành ngữ “dự tòng“ và “học viên giáo lý” để chỉ sự khác nhau đó. Về phía Giáo Luật, khoản 204 và khoản 206 nhắc lại sự khác biệt trong cách thế hợp nhất với Hội Thánh, giữa “dự tòng” và “tín hữu Kitô”.
[62]RICA 295 “Nghi thức khai tâm Kitô giáo dành cho người trưởng thành”, ở chương IV, có nêu lên trường hợp những người lớn đã được chịu phép rửa tội cần học giáo lý khai tâm. CT số 44 xác định rõ những trường hợp đa dạng theo đó cũng cần có giáo lý khai tâm này.
[63]AG 14d.
[64]Phương pháp Olympe, chẳng hạn, đã nêu lên vai trò làm mẹ của cộng đoàn Kitô giáo khi khẳng định rằng: “So với những người chưa hoàn hảo (trong đời sống Kitô hữu), thì những ai chín chắn hơn phải hành động như một người mẹ để đào tạo và làm cho những người ấy đạt tới ánh sáng”; METHODE D’OLYMPE, Symposium III, 8; SCh 95, 111; có cùng ý kiến đó, x.THÁNH GRÊGÔRIÔ CẢ: Homiliarum in Evangelia I, III, 2: PL 76, 1086
[65]RICA 8.
[66]x. CT 53.
[67]DGC (1971) 130. Số này nói lên khẳng định như sau: “Thời kỳ dự tòng chịu phép rửa tội cho người trưởng thành, vốn là thời vừa học giáo lý, vừa tham dự vào phụng vụ và đời sống cộng đoàn, được coi là một kiểu mẫu tuyệt vời cho một thể chế nảy sinh từ sự cộng tác vào những công việc mục vụ khác nhau”.