HƯỚNG DẪN TỔNG QUÁT VIỆC DẠY GIÁO LÝ - CHƯƠNG II: Đó là đức tin của chúng ta, Đó là đức tin của Hội Thánh (18/08/11, 3:44 pm)
“Tất cả những gì viết trong Sách
Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện
bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính.”(2Tm 3,16).
“Vậy, thưa anh em, anh em hãy
đứng vững và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho anh em, bằng
lời nói hay bằng thư từ.”(2Tx 2,15).
119. Chương này bàn về nội dung của
việc dạy giáo lý như đã trình bày trong những bản tổng hợp đức tin mà
Hội Thánh ban hành và đề ra một cách chính thức trong những sách giáo
lý.
Hội Thánh đã luôn có những
cách thức trình bày đức tin dưới hình thức ngắn gọn, chứa đựng điều cốt
yếu về những gì mà Hội Thánh tin và sống: những bản văn Tân ước, kinh
Tin kính hay những bản tuyên xưng đức tin, những công thức Phụng vụ,
những kinh nguyện Thánh Thể. Sau đó, cũng đã cung cấp những cách thức
trình bày đức tin sáng tỏ hơn, dưới hình thức tổng hợp có hệ thống, qua
những sách giáo lý đã được soạn thảo ở mấy thế kỷ sau tại nhiều Giáo Hội
địa phương. Trong cả hai thời điểm lịch sử: thời công đồng Trentô và
thời chúng ta, người ta thấy đã đến lúc phải cung cấp một cách trình bày
có hệ thống về đức tin bằng một Sách Giáo Lý có tính phổ quát, như điểm
tham chiếu cho việc dạy giáo lý trong cả Hội Thánh. Đó là điều mà Đức
Gioan Phaolô II đã muốn thực hiện khi công bố Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo ngày 11-10-1992.
Chương này cũng nhằm xác định
vị trí của các sách giáo lý là những văn bản chính thức của Hội Thánh,
trong tương quan với hoạt động giáo lý.
Trước hết, chúng ta sẽ suy nghĩ về Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
bằng cách thử giải thích vai trò của nó trong toàn bộ việc dạy giáo lý
của Hội Thánh. Kế đến, chúng ta sẽ phân tích sự cần thiết phải có những
sách giáo lý địa phương mà mục đích của chúng là thích nghi nội dung đức
tin vào những hoàn cảnh và những nền văn hoá khác nhau. Chúng ta sẽ đề
ra những đường hướng để dễ dàng soạn thảo những sách giáo lý địa phương.
Hội Thánh chiêm ngắm sự phong phú của nội dung đức tin đã được trình
bày trong những tài liệu mà chính các vị Giám Mục đang đề ra với Dân
Chúa, chúng giống như một bản “hoà tấu”[1]
biểu thị những gì Hội Thánh tin, cử hành và sống. Và Hội Thánh công bố:
“Đó là đức tin của chúng ta, đó là đức tin của Hội Thánh”.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáovà cuốnHướng Dẫn Tổng Quát Việc Dạy Giáo Lý.
120. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo và cuốn Hướng dẫn tổng quát việc dạy giáo lý là hai văn bản riêng biệt nhưng bổ sung cho nhau, để phục vụ việc dạy giáo lý của Hội Thánh.
- Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
là “một bản trình bày đức tin và giáo lý Công Giáo, được minh chứng và
soi sáng bởi Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền của Hội Thánh”[2].
- Cuốn Hướng Dẫn Tổng Quát Việc Dạy Giáo Lý
là bản đề xuất “những nguyên tắc cơ bản có tính thần học mục vụ, ban
hành bởi Huấn Quyền của Hội Thánh, và cách đặc biệt bởi Công Đồng
Vaticanô II, cả hai tự bản chất đều nhằm để hướng dẫn và phối hợp cách
thích đáng[3] hoạt động giáo lý trong Hội Thánh.
Hai văn bản này bổ túc cho nhau, mỗi thứ theo thể loại và quyền hạn riêng của mình.
- Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
là một hành vi Huấn quyền của Đức Giáo Hoàng, qua đó với quyền tông
tòa, ngài đã tổng hợp một cách qui phạm cho thời đại chúng ta toàn bộ
đức tin Công giáo và ngài đã giới thiệu sách đó, trước hết cho các Giáo
Hội, như là điểm quy chiếu để trình bày một cách chính thống nội dung
đức tin.
- Cuốn Hướng Dẫn Tổng Quát Việc Dạy Giáo Lý
đã được Toà Thánh đánh giá như những dụng cụ định hướng khi phê chuẩn
và khẳng định như vậy. Đây là một văn bản chính thức cho việc truyền đạt
sứ điệp Tin Mừng và cho toàn bộ hoạt động giáo lý.
Vì là hai văn bản bổ sung cho nhau, cuốn Hướng Dẫn Tổng Quát Việc Dạy Giáo Lý nầy, như đã nói ở phần Lời tựa, không nhằm chia ra từng chương để trình bày những nội dung của đức tin, như sách Hướng dẫn năm 1971 đã làm với tựa đề: “Những yếu tố chính yếu của sứ điệp Kitô giáo”[4]. Vì thế, những gì liên quan đến nội dung sứ điệp, cuốn Hướng dẫn Tổng Quát Việc Dạy Giáo Lý qui chiếu vào Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo và được coi như là công cụ có phương pháp để áp dụng cách cụ thể Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.
Việc trình bày Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
dưới đây không nhằm tóm tắt hay giải thích văn bản này của Huấn Quyền,
nhưng nhằm giúp dễ hiểu và dễ tiếp thu trong việc dạy giáo lý.
SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
Mục đích và bản chất của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.
121. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
đã chỉ rõ mục đích theo đuổi ngay trong phần mở đầu : “Mục đích của
sách giáo lý này là trình bày một cách có hệ thống và có tính cách tổng
hợp những nội dung cốt yếu và căn bản của đạo lý công giáo về mặt đức
tin cũng như về mặt luân lý, dưới ánh sáng của Công Đồng Vaticanô II và
toàn bộ Truyền thống của Hội Thánh”[5].
Qua Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, Huấn Quyền của Hội Thánh muốn thể hiện một việc phục vụ cho thời đại chúng ta, khi nhìn nhận Sách ấy như:
- “Một văn bản quý giá và có thẩm quyền để phục vụ cho sự hiệp thông Hội Thánh”[6].
Nó mong ước củng cố mối dây hiệp nhất nơi các môn đệ Chúa Giêsu Kitô,
bằng cách tạo điều kiện dễ dàng cho “việc tuyên xưng một đức tin duy
nhất đã nhận từ các Tông đồ”[7] ;
- “Một chuẩn mực chắc chắn cho việc “giảng dạy đức tin”[8]. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
cung cấp một giải đáp rõ ràng cho ước muốn chính đáng của tất cả những
người đã được rửa tội là học biết nơi Hội Thánh những gì mà Hội Thánh đã
nhận được và những gì mà Hội Thánh đã tin. Vậy nó là điểm qui chiếu bắt
buộc cho việc dạy giáo lý và những hình thức khác của tác vụ Lời Chúa.
- “Một bản văn quy chiếu cho những sách giáo lý hay sách toát yếu được soạn thảo ở nhiều quốc gia khác nhau”[9]. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo thực sự “không phải để thay thế cho những sách giáo lý địa phương”[10],
nhưng là để “ khuyến khích và hỗ trợ cho việc soạn thảo những sách giáo
lý mới ở địa phương, không những chú tâm đến những hoàn cảnh và các nền
văn hoá, mà còn phải bảo đảm tính duy nhất của đức tin và sự trung
thành với giáo lý Công Giáo”[11].
Bản chất hay đặc tính riêng của tài liệu
Huấn Quyền này hệ tại việc nó tự trình bày như là một tổng hợp có hệ
thống về đức tin mang giá trị phổ quát. Về điểm ấy, bản tổng hợp này
không giống với những tài liệu khác của Huấn Quyền, vì bản thân chúng
không dụng ý cung cấp một bản tổng hợp như thế. Nó cũng khác với những
sách giáo lý địa phương là những sách nhằm phục vụ một phần nhất định
của Dân Chúa trong sự hiệp thông với Hội Thánh.
Bố cục của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.
122. Lược đồ Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
xoay quanh bốn chiều kích cơ bản của đời sống Kitô hữu: tuyên xưng đức
tin, cử hành phụng vụ, đời sống luân lý theo Tin Mừng và việc cầu
nguyện. Bốn chiều kích này đều phát xuất từ cùng một hạt nhân: mầu nhiệm Kitô giáo. Mầu nhiệm này:
- Là đối tượng đức tin (Phần thứ nhất).
- Được cử hành và hiệp thông trong các hoạt động phụng vụ (Phần thứ hai).
- Hiện diện để soi sáng và nâng đỡ con cái Thiên Chúa trong hành động của mình (Phần thứ ba);
- Tạo nên kinh nguyện của chúng ta, mà
đỉnh cao là Kinh Lạy Cha và trở thành đối tượng của lời chúng ta cầu
xin, ngợi khen và chuyển cầu (Phần thứ bốn)[12];
Cấu trúc thành bốn phần như trên triển khai những khía cạnh chủ yếu của đức tin:
- Tin Thiên Chúa sáng tạo, Duy nhất trong Ba Ngôi và tin vào ý định cứu độ của Ngài.
- Được thánh hoá nhờ Ngài trong đời sống bí tích.
- Mến Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình.
- Cầu nguyện trong sự đợi chờ Vương Quốc của Ngài và được diện kiến Ngài.
Như vậy, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
quy chiếu vào đức tin như đã được tin, được cử hành, được sống và được
cầu nguyện; Sách ấy là một lời mời gọi việc giáo dục Kitô giáo toàn
diện.
Cấu trúc Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo gợi lên sự hiệp nhất sâu xa của đời sống Kitô hữu. Mối tương quan giữa “luật cầu nguyện” ( lex orandi) “luật đức tin” (lex credendi) và “luật sống” ( lex vivendi)
quả là rõ ràng. “Phụng vụ tự nó là cầu nguyện; việc tuyên xưng đức tin
có chỗ đứng chính đáng trong khi cử hành phụng tự. Ân sủng, hoa trái của
các bí tích, là điều kiện không thể thay thế được của hành động Kitô
giáo, cũng như việc tham dự phụng vụ của Hội Thánh đòi phải có đức tin.
Nếu đức tin không được biểu lộ bằng việc làm thì đức tin chết và không
thể mang lại hoa trái của đời sống vĩnh cửu”[13].
Nhờ bố cục truyền thống xoay quanh bốn cột trụ nâng đỡ việc truyền đạt đức tin (kinh Tin Kính, các bí tích, Mười Điều Răn, kinh Lạy Cha)[14], Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo là một tham chiếu giáo lý cho việc giáo dục về bốn chức năng căn bản của việc dạy giáo lý[15]
và cho việc soạn thảo những sách giáo lý địa phương, mà không áp đặt
bất cứ một hình thức nhất định nào trên hai việc ấy. Phương thế sắp xếp
hợp lý nhất các thành phần nội dung của việc dạy giáo lý phải đáp ứng
được những hoàn cảnh cụ thể và Sách giáo lý chung không làm điều ấy cho
tất cả Hội Thánh[16]. Sự trung thành hoàn toàn với giáo lý công giáo có thể đi đôi với vô số cách thế trình bày giáo lý ấy.
Nguồn cảm hứng của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo: Tính Qui Kitô mang chiều kích Ba Ngôi và sự cao cả của ơn gọi con người.
123. Trục chính của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo là Chúa Giêsu Kitô, “là đường, sự thật và sự sống”(Ga 14,6).
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáomà Chúa Giêsu Kitô là trung tâm được qui về hai hướng: Thiên Chúa và con người.
- Mầu nhiệm Thiên Chúa, duy nhất trong Ba Ngôi và nhiệm cục cứu độ của Ngài gợi ý và cấu tạo toàn bộ nội dung của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Việc tuyên xưng đức tin, phụng vụ, đời sống luân lý theo Tin Mừng, sự cầu nguyện trong Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có một cảm hứng mang chiều kích Ba Ngôi, là sợi chỉ xuyên suốt cho toàn bộ tác phẩm[17]. Yếu tố trọng tâm ấy của cảm hứng góp phần đem lại một đặc tính tôn giáo sâu xa cho mọi phần của cuốn sách.
- Mầu nhiệm con người được trình bày trong những trang của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
và đặc biệt trong mấy chương có ý nghĩa như: “Con người có khả năng đón
nhận Thiên Chúa”, “Sự tạo dựng con người”, “Con Thiên Chúa làm người”,
“Ơn gọi con người là sự sống trong Thánh Thần ”… và những chương khác
nữa[18].
Điểm giáo lý này được nhìn dưới ánh sáng của bản tính nhân loại nơi
Chúa Giêsu là con người hoàn hảo, cho thấy ơn gọi cao cả và lý tưởng
trọn lành mà mỗi người được mời gọi tới.
Trong thực tế, tất cả giáo thuyết của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
có thể tóm lại trong ý tưởng này của Công Đồng: “Đức Kitô, trong sự mạc
khải về mầu nhiệm Chúa Cha và tình yêu của Ngài, biểu lộ một cách đầy
đủ cho con người về chính họ và cho biết ơn gọi cao cả của họ”[19].
Thể loại văn chương của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.
124. Việc khám phá ra thể loại văn chương của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
thật là quan trọng, để tôn trọng chức năng mà với quyền bính của mình
Hội Thánh đã trao cho, trong việc thực thi và canh tân hoạt động giáo lý
hiện nay.
Những nét chính xác định thể loại văn chương của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo là:
- Trước hết, đó là một cuốn sách giáo lý,
được coi như văn bản chính thức của Huấn Quyền Hội Thánh; bản văn ấy,
với thẩm quyền của mình, đón nhận thành một tổng hợp chính xác và có hệ
thống, những biến cố và những chân lý cơ bản của ơn cứu độ, diễn tả đức
tin chung của Dân Chúa và tạo thành điểm quy chiếu nền tảng cần thiết
cho việc dạy giáo lý.
- Là sách giáo lý, bản văn ấy tập hợp
những yếu tố nền tảng chung trong đời sống Kitô hữu, mà không coi như là
giáo lý đức tin những giải thích riêng tư vốn mới chỉ là những giả
thuyết cá nhân hay những quan điểm của một trường phái thần học[20].
- Ngoài ra, đó là một Sách giáo lý có
tính phổ quát được trao ban cho toàn thể Hội Thánh. Sách giáo lý này
trình bày một tổng hợp đức tin được cập nhật hoá, nó áp dụng giáo thuyết
của Công Đồng Vaticanô II, lưu tâm đến các vấn nạn tôn giáo và luân lý
của thời đại chúng ta. Tuy nhiên, “ngay trong chính mục đích của nó,
Sách Giáo lý này không có dự định thực hiện những thích nghi trong cách
trình bày giáo lý cũng như trong những phương pháp huấn giáo đáp ứng cho
những khác biệt về văn hoá, tuổi tác, mức trưởng thành thiêng liêng,
hoàn cảnh xã hội và Giáo Hội của những người học giáo lý. Những thích
nghi cần thiết này thuộc phạm vi của những sách giáo lý chuyên biệt và
hơn nữa còn là của những người giảng dạy các tín hữu”[21].
Kho tàng đức tin và Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
125. Công Đồng Vaticanô II coi mình
có nhiệm vụ chính yếu bảo vệ và giải thích hoàn hảo hơn kho tàng quý giá
của giáo lý Kitô giáo, để các tín hữu của Đức Kitô và mọi người thiện
chí dễ dàng tiếp cận kho tàng ấy.
Nội dung của kho tàng này là Lời Chúa,
được bảo tồn trong Hội Thánh. Huấn Quyền của Hội Thánh đang khi hăng say
với mục đích soạn thảo một bản văn tham chiếu cho việc giáo dục đức
tin, đã rút từ kho tàng quí giá này cả điều cũ lẫn điều mới, chọn những
gì mà Huấn quyền tin rằng nó thích hợp nhất cho việc thực hiện mục tiêu
của mình. Như thế, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
được giới thiệu như một sự phục vụ cơ bản đó là làm cho việc rao giảng
Tin Mừng và việc giảng dạy đức tin được dễ dàng, bởi vì những điều này
kín múc sứ điệp từ kho tàng Thánh Truyền và Thánh Kinh đã được trao phó
cho Hội Thánh để có thể được thực thi với sự xác thực hoàn toàn. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
không phải là nguồn mạch duy nhất của việc dạy giáo lý; thực vậy, với
tư cách là một hành vi của quyền Giáo Huấn, sách giáo lý đó không vượt
lên trên Lời Chúa, nhưng là để phục vụ cho Lời Chúa. Tuy nhiên, việc
giải thích trung thực Lời Chúa là một việc làm đặc biệt quan trọng, một
việc làm cần thiết để Tin Mừng được loan báo và truyền đạt trong tất cả
sự thật và sự tinh tuyền của nó.
126. Dựa vào ánh sáng của mối tương quan giữa Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo với kho tàng đức tin, nên làm sáng tỏ hai vấn đề có tầm mức quan trọng sống còn đối với việc dạy giáo lý:
- Mối tương quan giữa Thánh Kinh và Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo như là những điểm quy chiếu cho nội dung việc dạy giáo lý.
- Mối tương quan giữa truyền thống dạy
giáo lý của các Giáo Phụ là một truyền thống phong phú về nội dung và
khôn khéo trong tiến trình dạy giáo lý với Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.
Thánh Kinh, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo và việc dạy giáo lý.
127. Hiến chế Dei Verbum của
Công Đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh tất cả tầm quan trọng của Thánh Kinh
trong đời sống của Hội Thánh. Thánh Kinh được trình bày liên kết với
Thánh Truyền như là “quy luật tối thượng của đức tin”, bởi vì Thánh Kinh
thông đạt “Lời của chính Thiên Chúa một cách bất di bất dịch” và làm
“vang dội lại tiếng nói của Thánh Thần trong lời của các tiên tri và các
Tông đồ”[22].
Vì thế, Hội Thánh muốn Thánh Kinh phải giữ một vị trí nổi bật trong
tất cả tác vụ Lời Chúa. Một cách cụ thể, việc dạy giáo lý phải là một
dẫn nhập đích thực vào “bài đọc Lời Chúa” (lectio divina), nghĩa là vào
việc đọc Thánh Kinh được thực hiện “theo Thánh Thần”, Đấng ngự trong Hội
Thánh[23].
Theo nghĩa đó, “nói về Thánh Truyền và
Thánh Kinh như nguồn mạch của việc dạy giáo lý, chính là để nhấn mạnh
rằng việc dạy giáo lý phải tiêm nhiễm và thấm nhuần tư tưởng, tinh thần
và thái độ của Thánh Kinh và Phúc Âm nhờ năng tiếp xúc với chính những
bản văn; nhưng cũng để nhắc lại rằng việc dạy giáo lý sẽ càng phong phú
và hữu hiệu hơn nếu đọc các bản văn với trí hiểu và tâm hồn của Hội
Thánh”[24]. Trong việc đọc Thánh Kinh theo tinh thần Hội Thánh, được thực hiện dưới ánh sáng của Thánh Truyền, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo giữ một vai trò rất quan trọng.
128. Thánh Kinh và Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo được coi như hai điểm quy chiếu, để gợi hứng cho mọi hoạt động giáo lý của Hội Thánh trong thời đại chúng ta.
- Thực vậy, Thánh Kinh, “Lời Chúa được viết ra dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần”[25] và Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
là lối diễn tả hiện nay của Truyền thống sống động của Hội Thánh và là
chuẩn mực chắc chắn cho việc giảng dạy đức tin, cả hai được mời gọi để
làm phong phú việc dạy giáo lý trong Hội Thánh hiện nay, mỗi thứ theo
cách thế và quyền hạn chuyên biệt của mình.
- Việc dạy giáo lý truyền đạt nội dung
Lời Chúa theo hai cách thế mà Hội Thánh sẵn có, nội tâm hoá Lời Chúa và
sống Lời Chúa, như việc kể lại Lịch sử Cứu độ và như việc giải thích
Kinh Tin Kính. Thánh Kinh và Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo phải gợi hứng cho việc dạy giáo lý Thánh Kinh cũng như tín lý, mà cả hai đều truyền tải nội dung của Lời Chúa.
- Trong cách khai triển bình thường của
việc dạy giáo lý, điều quan trọng là các dự tòng và các người học giáo
lý có thể đặt tin tưởng vào Thánh Kinh lẫn sách giáo lý địa phương. Nói
tóm lại, việc dạy giáo lý không gì khác hơn là sự truyền đạt sinh động
và đầy ý nghĩa những tài liệu đức tin đó[26].
Truyền thống dạy giáo lý của các Giáo Phụ và Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.
129. Kho tàng đức tin bao
gồm Thánh Kinh và Thánh Truyền của Hội Thánh. “Giáo Huấn của các Giáo
Phụ chứng thực sự có mặt sống động của Truyền thống này, mà sự phong phú
của nó lưu truyền lại trong thực hành và trong đời sống của Hội Thánh,
một Hội Thánh luôn tin tưởng và cầu nguyện”[27].
Đứng trước sự phong phú về giáo lý và mục vụ như vậy, chúng ta nên lưu ý đến một vài khía cạnh sau đây:
- Tầm mức quan trọng quyết định mà Các
Giáo Phụ đã dành cho thời gian dự tòng chuẩn bị chịu Phép Rửa tội trong
cơ cấu hình thành các Giáo Hội địa phương.
- Quan điểm tiệm tiến và từng bước của việc đào tạo các Kitô hữu được sắp xếp thành những giai đoạn[28].
Các Giáo Phụ đã hình thành thời gian dự tòng dựa theo đường lối sư phạm
của Thiên Chúa. Trong tiến trình dự tòng, cũng như dân Israel, người dự
tòng phải trải qua con đường dài để tiến vào đất hứa: đó là sự đồng hoá
với Đức Kitô do phép rửa[29].
- Bố cục nội dung của việc dạy giáo lý
theo những giai đoạn của tiến trình này. Trong việc dạy giáo lý theo
tinh thần Giáo phụ, việc thuật lại lịch sử Cứu độ giữ vai trò quan trọng
hàng đầu. Khi sắp hết mùa Chay, người ta mới tiến hành trao Kinh Tin Kính và Kinh Lạy Cha cũng
như giải thích hai kinh ấycùng với những thực hành luân lý. Sau khi đã
cử hành các bí tích khai tâm, việc dạy giáo lý nhiệm huấn giúp họ nội
tâm hoá và cảm nghiệm các bí tích này.
130. Về phần mình, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo mang lại cho việc dạy giáo lý cả truyền thống vĩ đại của các sách giáo lý[30] . Trong sự phong phú của truyền thống này, một vài khía cạnh đáng được lưu ý ở đây:
- Chiều kích nhận thức về chân lý và đức
tin. Đức tin không chỉ là sự kết hợp sống động với Thiên Chúa mà còn là
sự chấp nhận của trí khôn và ý muốn đối với chân lý mạc khải. Các sách
giáo lý luôn nhắc nhở Hội Thánh cần phải cung cấp cho các tín hữu một
hiểu biết có hệ thống về đức tin, dầu chỉ là dưới hình thức đơn giản,
- Sự giáo dục đức tin đã bén rễ sâu vào
mọi nguồn gốc và còn bao hàm nhiều chiều kích: một đức tin được tuyên
xưng, được cử hành, được sống và được cầu nguyện.
Sự phong phú về truyền thống Giáo phụ và
truyền thống những sách giáo lý biểu hiện trong việc dạy giáo lý của Hội
Thánh ngày nay, bằng cách làm cho nó phong phú cả về quan niệm lẫn nội
dung. Những truyền thống này nhắc cho việc dạy giáo lý bảy yếu tố căn
bản cấu thành chính việc dạy giáo lý: - ba giai đoạn thuật lại lịch sử
Cứu độ: Cựu ước, đời sống Chúa Giêsu Kitô và lịch sử Hội Thánh, - bốn
cột trụ của việc trình bày là: kinh Tin Kính, các Bí tích, Mười Điều Răn
và kinh Lạy Cha. Với bảy viên đá tảng này đặt nền móng cho
tiến trình dạy giáo lý khai tâm cũng như hành trình tiếp theo của sự
trưởng thành Kitô giáo, chúng ta có thể xây dựng những toà nhà có kiến
trúc hay phối trí khác nhau, tùy theo các đối tượng hay những hoàn cảnh
văn hoá.
NHỮNG SÁCH GIÁO LÝ
TRONG CÁC GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG.
Sự cần thiết của những Sách Giáo Lý địa phương[31]
131. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo được trao cho mọi tín hữu và cho những ai muốn biết điều Hội Thánh Công Giáo tin[32]
và một cách rất đặc biệt “nhằm khuyến khích và giúp soạn những sách
giáo lý mới ở địa phương, quan tâm đến những hoàn cảnh và những nền văn
hoá khác nhau, nhưng phải cẩn trọng bảo vệ tính thống nhất đức tin và sự
trung thành với giáo lý Công giáo”[33].
Thật vậy, những sách giáo lý
địa phương được soạn ra hay được phê chuẩn bởi các Giám Mục giáo phận
hoặc các Hội đồng Giám mục[34],
đều là những công cụ vô giá đối với việc dạy giáo lý “đã từng được kêu
gọi đưa sức mạnh Tin Mừng vào trong lòng văn hoá và các nền văn hoá”[35].
Vì thế, Đức Gioan Phaolô II đã tha thiết khích lệ các Hội Đồng Giám Mục
trên khắp thế giới, bằng sự kiên trì, nhưng với một quyết định chắc
chắn và sự đồng thuận với Toà Thánh, phải đảm nhận công việc quan trọng
này là duyệt xét lại những sách giáo lý thực sự trung thành với những
nội dung chủ yếu của Mạc khải và cập nhật hóa phương pháp có thể giáo
dục đức tin mạnh mẽ cho những Kitô hữu thời đại mới[36].
Qua các sách giáo lý địa phương, Hội Thánh cập nhật hoá “khoa sư phạm thần linh”[37]
mà Thiên Chúa đã sử dụng trong Mạc Khải, với những săn sóc ân cần, Ngài
đã thích nghi ngôn ngữ của Ngài vào bản tính của chúng ta[38].
Trong những sách giáo lý địa phương, Hội Thánh thông truyền Phúc Âm
cách dễ hiểu cho con người, để họ có thể thực sự nhận ra Phúc Âm như là
mộttin mừng cứu độ. Những sách giáo lý địa phương như thế đã trở thành một biểu thị khả giác về “sự hạ cố tuyệt vời”[39] của Thiên Chúa và tình yêu bất tận[40] của Ngài đối với thế giới.
Thể loại văn chương của một sách giáo lý địa phương.
132. Mọi sách giáo lý, khi được một
Giáo Hội địa phương nhận làm của mình, có ba đặc tính cốt yếu sau: một
tính chính thức, sự tổng hợp có hệ thống và cơ bản của đức tin mà sách
ấy trình bày và việc sách được đề nghị, cùng với Thánh Kinh, như là điểm
quy chiếu của việc dạy giáo lý.
- Thực vậy, sách giáo lý địa
phương là một bản văn chính thức của Hội Thánh. Một cách nào đó nó làm
sáng tỏ “việc trao Kinh Tin Kính” và “việc trao kinh Lạy Cha” cho các
người dự tòng và cho những ai cần được rửa tội. Như vậy cũng là sự diễn
tả một hành vi truyền thống.
Đặc tính chính thức của nó
giúp phân biệt về phẩm chất giữa sách giáo lý địa phương và những tài
liệu làm việc khác, có ích trong sư phạm giáo lý, (các bản văn sách giáo
khoa, các sách giáo lý không chính thức, những tài liệu hướng dẫn các
giáo lý viên …)
- Hơn nữa, mọi sách giáo lý
đều có đặc tính của một tổng hợp căn bản trình bày các biến cố và các
chân lý nền tảng của mầu nhiệm Kitô giáo một cách có hệ thống và trong
sự tôn trọng “bậc thang các chân lý”.
- Với một cấu trúc mạch lạc,
Sách giáo lý địa phương trình bày toàn bộ những “văn kiện của Mạc khải
và truyền thống Kitô giáo”[41] đã được đề xuất qua các ngôn ngữ rất đa dạng trong đó Lời Chúa được diễn tả.
Sách giáo lý địa phương được
trình bày như một điểm quy chiếu làm cảm hứng cho việc dạy giáo lý.
Trong tiến trình dạy giáo lý, Thánh Kinh và sách giáo lý là hai tài liệu
giáo thuyết căn bản, mà mọi người phải có trong tay. Tuy cả hai đều là
những phương tiện quan trọng hàng đầu, nhưng không phải là duy nhất: như
vậy cần phải có những công cụ làm việc khác trực tiếp hơn[42].
Như vậy cũng là chính đáng khi tự hỏi rằng một cuốn giáo lý chính thức
phải bao hàm những yếu tố sư phạm không hay ngược lại, nó chỉ giới hạn
là một tổng hợp giáo thuyết, chuyên cung cấp những tài liệu gốc.
Trong mọi trường hợp, vì là
một phương tiện cho việc dạy giáo lý - tức là một hành vi thông truyền -
nên sách giáo lý phải luôn tuân thủ một cảm hứng sư phạm nào đó và phải
làm sáng tỏ khoa sư phạm của Thiên Chúa qua thể loại văn chương của nó.
Những vấn đề liên quan trực tiếp hơn đến phương pháp thường được tìm thấy ở những tài liệu khác.
Những khía cạnh thích nghi trong một sách giáo lý địa phương[43].
133. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
chỉ rõ những khía cạnh phải quan tâm, khi người ta thích nghi hay đặt
vào một hoàn cảnh cụ thể sự tổng hợp có hệ thống về đức tin mà bất cứ
sách giáo lý địa phương nào cũng phải đề ra. Bản tổng hợp đức tin đó
phải thực hiện những sự thích nghi do “những khác biệt văn hoá, tuổi
tác, mức trưởng thành thiêng liêng, hoàn cảnh xã hội và Giáo Hội của
những người học giáo lý”[44],
Công Đồng Vaticanô II cũng đã khẳng định một cách chắc chắn cần phải có
sự thích nghi sứ điệp Tin Mừng: “sự giảng dạy có thích nghi lời Mạc
khải phải mãi mãi là quy luật của mọi việc rao giảng Tin Mừng”[45]. Vì thế :
- Một sách giáo lý địa phương
phải trình bày bản tổng hợp đức tin theo môi trường văn hoá cụ thể nơi
các dự tòng và những người học giáo lý đang sống. Sách giáo lý đó phải
đảm nhận tất cả “những lối diễn tả độc đáo về đời sống, việc cử hành và
tư tưởng Kitô giáo”[46],
nảy sinh từ truyền thống văn hoá riêng của chúng. Những lối diễn tả độc
đáo này là hoa trái công trình hội nhập văn hoá của Giáo Hội địa
phương.
- Mỗi sách giáo lý địa phương trung thành với sứ điệp và trung thành với con người[47],
trình bày mầu nhiệm Kitô giáo một cách hấp dẫn và gần gũi với tâm lý và
não trạng theo tuổi tác của người học giáo lý và vì thế lại quy chiếu
vào những kinh nghiệm căn bản của đời sống họ[48].
- Phải quan tâm đặc biệt đến
nếp sống tôn giáo cụ thể trong một xã hội nhất định. Soạn thảo một sách
giáo lý cho một môi trường hoàn toàn lãnh đạm với tôn giáo phải khác với
việc soạn thảo sách giáo lý cho một bối cảnh có tinh thần tôn giáo sâu
sắc[49]. Tương quan giữa “đức tin và khoa học” phải được bàn luận rất cẩn thận trong mọi cuốn sách giáo lý.
- Những vấn đề xã hội quanh
ta, ít là những vấn đề có liên quan đến những yếu tố cơ cấu sâu xa nhất
(kinh tế, chính trị, gia đình…) là một nhân tố quan trọng cho việc thích
nghi sách giáo lý với một bối cảnh nhất định. Cảm hứng từ học thuyết xã
hội của Hội Thánh, sách giáo lý có thể đưa ra những tiêu chuẩn, những
động cơ và những đường hướng hành động làm nổi bật sự hiện diện Kitô
giáo giữa các vấn đề đó[50].
- Sau cùng, hoàn cảnh cụ thể
mà Giáo Hội địa phương đang sống, chính là bối cảnh bắt buộc mà sách
giáo lý phải dựa vào. Dĩ nhiên, ta không hiểu đó là những hoàn cảnh ngẫu
nhiên, mà các văn kiện khác của Huấn Quyền đáp ứng, nhưng là một hoàn
cảnh cố định đòi hỏi một sự rao giảng Tin Mừng với những điểm nhấn đặc
biệt và rõ rệt hơn.[51]
Sự sáng tạo của các Giáo Hội địa phương trong việc soạn thảo các sách giáo lý.
134. Trong nhiệm vụ thích nghi, đáp
ứng với hoàn cảnh và hội nhập văn hoá của sứ điệp Tin Mừng cho những lứa
tuổi, những hoàn cảnh và văn hoá khác nhau, các Giáo Hội địa phương qua
các sách giáo lý của mình phải chứng tỏ một sự sáng tạo chín chắn và
trưởng thành. Trong kho tàng đức tin (Depositum fidei) đã được
trao cho Hội Thánh, các Giáo Hội địa phương phải tuyển chọn, bố trí và
diễn tả dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, là Thầy dạy nội tâm, mọi
yếu tố hữu ích để truyền đạt Tin Mừng, trong sự xác thực hoàn toàn của
nó, ở một hoàn cảnh nhất định.
Trong nhiệm vụ nặng nề này, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo là “điểm quy chiếu” nhằm bảo đảm sự hiệp nhất đức tin. Cuốn Hướng Dẫn Tổng Quát Việc Dạy Giáo Lý hiện có tự nó cung cấp những tiêu chuẩn căn bản để hướng dẫn việc trình bày sứ điệp Kitô giáo.
135. Về những gì liên quan đến việc soạn thảo những sách giáo lý địa phương, nên nhắc lại mấy điểm sau đây:
- Trước hết là soạn thảo
những sách giáo lý đích thực được thích nghi và hội nhập văn hoá. Theo
hướng đó, nên phân biệt giữa một sách giáo lý nhằm thích nghi sứ điệp
Kitô giáo vào những lứa tuổi, hoàn cảnh và văn hóa khác nhau, với một
tổng hợp đơn thuần của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, nhằm giúp học cuốn sách này. Đó là hai thể loại khác nhau[52].
- Những sách giáo lý địa phương có thể mang đặc tính riêng của một giáo phận, một miền hay một quốc gia[53].
- Về cấu trúc nội dung, thực
tế hàng Giám Mục các nơi đã xuất bản những sách giáo lý có bố cục hoặc
hình thức đa dạng. Như đã nói, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
được coi như quy chiếu giáo lý, nhưng không vì thế mà áp đặt một hình
thức giáo lý đặc biệt nào cho toàn thể Hội Thánh. Do đó, có những sách
giáo lý theo cấu trúc Ba Ngôi, những sách khác theo các giai đoạn cứu
độ, hay một chủ đề Thánh Kinh và thần học hết sức cô đọng (Giao ước, Nước Thiên Chúa, v.v...) hoặc thiên về chiều kích đức tin, sau cùng một số khác soạn theo năm phụng vụ.
- Còn về cách diễn tả sứ điệp
Tin Mừng, thì tính sáng tạo khi soạn một cuốn sách giáo lý có ảnh hưởng
đến việc hình thành nội dung[54].
Quả thực, một sách giáo lý phải trung thành với kho tàng đức tin trong
phương pháp trình bày bản chất giáo lý của sứ điệp Kitô giáo. “Các Giáo
Hội địa phương, vì hòa hợp sâu xa với con người, với cả những khát vọng,
những phong phú và giới hạn của nó, với những cách cầu nguyện, yêu
thương, với những lối nhìn cuộc đời và thế giới, nghĩa là với tất cả
những gì tiêu biểu cho một xã hội nhân loại nào đó, vì thế các Giáo Hội
địa phương phải hấp thụ những điểm cốt yếu của Tin Mừng để rồi trung
thực chuyển sang ngôn ngữ mà những người trong xã hội đó hiểu được và
sau đó loan báo Tin Mừng bằng chính ngôn ngữ này”[55].
Công Đồng Vaticanô II đã chỉ
ra nguyên tắc phải theo trong nhiệm vụ phức tạp này. “Hãy luôn tìm kiếm
một phương thức thích ứng hơn để truyền thông giáo lý cho người đương
thời: vì một đàng là kho tàng đức tin các chân lý, một đàng là phương
thức diễn đạt kho tàng đó miễn sao giữ vững đúng ý nghĩa và nội dung”[56].
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáovà các sách Giáo Lý địa phương : bản hoà tấu đức tin.
136. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo và
những sách giáo lý địa phương, tất nhiên do quyền hạn riêng của mỗi
sách, tạo nên một sự duy nhất. Cả hai đều là cách diễn tả cụ thể về “sự
hiệp nhất đức tin và sự trung thành với giáo lý Công giáo”[57], cũng như về sự đa dạng phong phú trong những trình bày về chính đức tin này.
Đối với những ai biết chiêm ngưỡng sự hài hoà của chúng, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo và những sách giáo lý địa phương diễn đạt bản hoà tấu đức tin: trước hết là một bản hòa tấu bên trong Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo,
vốn được soạn thảo với sự cộng tác của tất cả hàng Giám Mục trong Hội
Thánh Công Giáo; rồi từ đó thêm một bản hoà tấu phát sinh và được biểu
diễn trong các sách giáo lý địa phương. “ Bản hòa tấu này”, “ban hợp
xướng nhiều bè của Hội Thánh hoàn vũ”[58] vang lên trong các sách giáo lý địa phương, trung thành với Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, mang một ý nghĩa thần học quan trọng:
- Trước hết nó biểu lộ tính công giáo của
Hội Thánh. Gia sản văn hoá của các dân tộc được gắn liền với sự diễn tả
đức tin của Hội Thánh duy nhất.
- Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo và những sách giáo lý địa phương cũng diễn tả sự hiệp thông giáo hội mà việc “tuyên xưng một đức tin duy nhất” [59]
là một trong những mối liên kết hữu hình. Các Giáo Hội địa phương,
“chính trong và từ các Giáo Hội ấy mà có Hội Thánh duy nhất của Đức
Kitô”[60], cùng nhau bảo tồn với Hội Thánh hoàn vũ “một mối tương quan đặc biệt nội tại lẫn nhau”[61]. Sự thống nhất giữa Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo và những sách giáo lý địa phương đã khiến cho sự hiệp thông đó thêm rõ ràng.
- Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo
và những sách giáo lý địa phương cũng diễn tả một cách hiển nhiên tính
tập thể của hàng Giám Mục. Mỗi vị Giám Mục trong giáo phận của mình và
trong Giám Mục đoàn, hiệp thông với Đấng kế vị Thánh Phêrô, đều có trách
nhiệm lớn nhất đối với việc dạy giáo lý trong Hội Thánh[62].
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáovà
những sách giáo lý Công giáo địa phương, nhờ sự thống nhất sâu xa và sự
đa dạng phong phú của nó, đã được mời gọi trở nên một nắm men cho sự
canh tân việc dạy giáo lý trong Hội Thánh. Khi quan sát những sách này
với một cái nhìn công giáo và phổ quát, Hội Thánh, nghĩa là toàn thể
cộng đoàn các môn đệ Đức Kitô, có thể nói chân thật rằng: “Đó là đức tin
của chúng ta, đó là đức tin của Hội Thánh”.
[1]x. FD 2d.
[2]FD 4a.
[3]DGC (1971) dẫn nhập.
[4]DGC (1971) phần III, chương 2.
[5]CEC 11.
[6]FD 4a; x. FD 4b.
[7]CEC 815.
[8]FD 4a; x. FD 4c.
[9]FD 1f; x. FD 4c.
[10]FD 4d.
[11]Ibid
[12]FD 3d.
[13]FD 3e.
[14]x. CEC 13.
[15]x. phần I, chương 3 của cuốn Hướng Dẫn này.
[16]x. Đức Hồng Y J. RATZINGER, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo và chủ trương lạc quan của những con người được cứu chuộc, nơi J. RATZINGER – C.SCHONBORN, Một nhập môn nhỏ vào Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo [dịch từ Kleine Hingubrung zum Katechismus der Katholischen Kirche, Munchen 1993] Paris 1995.
[17]x. CEC 189-190; 1077-1109; 1693-1695; 2564;…
[18]x. CEC 27-49; 355-379; 456-478;1699-1756; vv…
[19]GS 22a.
[20]DGC (1971) 119.
[21]CEC 24.
[22]DV 21
[23]MPD 9c; x. Uỷ Ban Thánh Kinh của Toà Thánh, văn kiện chú giải Thánh Kinh trong Hội Thánh, IV, C,3: Lc.
[24]CT27; x. SYNODE 1985, II, B.a.l.
[25]DV 9.
[26]x. MPD 9.
[27]DV 8c.
[28]Khi
Công Đồng Vaticanô II đòi phục hồi thời gian dự tòng cho những người
trưởng thành, đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải duy trì tính tiệm tiến
“người ta phải tái lập thời gian dự tòng cho những người trưởng thành
được phân bổ thành nhiều giai đoạn” (SC 64).
[29]Xin
kể lại đây làm ví dụ, lời chứng của Origène: “Khi ngươi từ bỏ chốn tối
tăm, tục thờ ngẫu thần để tiến tới sự hiểu biết lề luật Thiên Chúa, tức
là khi ngươi ra khỏi Ai Cập. Khi ngươi đã hợp nhất với vô vàn người dự
tòng và ngươi đã bắt đầu vâng giữ các giới răn của Hội Thánh, ngươi đã
vượt qua Biển Đỏ. Trong những trạm dừng chân ở hoang mạc, mỗi ngày các
ngươi đã chăm chú nghe lề luật Chúa. Nhưng khi các ngươi đến giếng rửa
tội… vượt qua sông Giôđan…. rồi ngươi tiến vào đất hứa” (Origênê,
Homiliae in Jesu Nave, IV, 1: SCR 71, 149).
[30]x. CEC 13.
[31]Tiểu
đề này chỉ hiểu các sách giáo lý chính thức, là những sách mà Giám mục
giáo phận (CIC 775,1) hay Hội Đồng Giám mục (CIC 775,2) nhận là của
mình. Còn những sách giáo lý không chính thức (CIC 827,1) và những tài
liệu dạy giáo lý (DGC 1971, 116) cũng được bàn đến trong phần V chương
4.
[32]FD 4c.
[33]FD 4d.
[34]x. CIC 775.
[35]CT 53a, x. CEC 24.
[36]x. CT 50.
[37]DV 15.
[38]x. DV 13.
[39]DV 13.
[40]DV 13. Lòng nhân hậu bất tận, những săn sóc tiên phòng, sự hạ cố,
đó là những thành ngữ riêng của lối sư phạm thần linh trong Mạc Khải.
Những thành ngữ đó tỏ rõ ý muốn của Thiên Chúa “thích nghi”
(synkatabaris) với con người. Chính trong tinh thần đó, mà các sách giáo
lý được biên soạn.
[41]DGC (1971) 119.
[42]Đồng
thời như những công cụ, còn có những nhân tố khác cũng can thiệp vào
việc dạy giáo lý: con người giáo lý viên, phương pháp truyền thông của
họ, tương quan giữa giáo lý viên và học viên, sự tôn trọng nhịp độ nội
tâm của nhận thức, bầu không khí yêu thương và tin tưởng, trong sự
truyền thông, sự trợ lực tích cực của cộng đoàn Kitô hữu.
[43]x. Phần IV, chương 1.
[44]CEC 24.
[45]GS 44.
[46]CT 53a
[47]x. CT 55c, MPD 7, DGC (1971) 34
[48]x. CT 36-45
[49]Trong
những sách giáo lý địa phương, phải quan tâm đến cách thảo luận và
hướng đến nếp tôn giáo bình dân. (xem EN 48; CT54 và CEC 1674-1676), và
cả những gì liên quan đến đối thoại đại kết (xem CT32-34;CEC 817-822) và
đối thoại liên tôn (xem EN 53; RM 55-57 và CEC 839-845.
[50]LC
72 đã phân biệt giữa “các nguyên tắc suy tư” “những tiêu chuẩn phán
đoán”, và “những đường lối hành động” đã được Hội Thánh ban hành liên
quan đến học thuyết xã hội của Hội Thánh. Mỗi Sách giáo lý phải biết
phân biệt những mức độ đó.
[51]Chúng
ta quy chiếu một cách chính yếu vào “những hoàn cảnh xã hội tôn giáo đa
dạng” mà việc loan báo Tin Mừng phải đối diện. Đó là vần đề đã được đặt
ra ở phần I, chương 1.
[52]Về
sự phân biệt giữa những sách giáo lý địa phương và những công trình
tổng hợp cuốn CEC, xin xem những gì đã được đề cập đến trong Bộ Giáo Lý
đức tin, Bộ Giáo sĩ, là thư gửi cho các Chủ tịch Hội Đồng Giám mục, về
những chỉ dẫn về “những công trình tổng hợp” “của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo”(Prot
N.94004378 ngày 10.11.1994), Mở đầu 1-2 ở đây có câu: “Người ta có thể
hiểu lầm rằng những công trình tổng hợp của CEC thay thế cho những sách
giáo lý địa phương, đến độ làm nản lòng những nơi đang chuẩn bị soạn
những sách giáo lý; trong khi những tổng hợp đó còn đang thiếu những
thích nghi vào những hoàn cảnh của những ai cần được học giáo lý” (Mở
đầu 4).
[53]x. CIC 775 §§ 1-2.
[54]Vấn đề ngôn ngữ hoặc ở trong những sách giáo lý địa phương hoặc trong việc dạy giáo lý là điều quan trọng hàng đầu. x. CT59.
[55]EN
63. Trong bổn phận tế nhị để đồng hoá và diễn tả nêu ra trong bản văn
này, phải cẩn thận lưu tâm đến nhận xét của Bộ Giáo Lý đức tin - Bộ
Giáo sĩ, những hướng dẫn về “những công trình tổng hợp” của Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.
Mở đầu 3;1.c: “Việc soạn thảo những sách giáo lý địa phương lấy CEC làm
“Văn bản quy chiếu chắc chắn và có thẩm quyền “(FD 4) ”, còn lại là mục
tiêu quan trọng đối với các hàng Giám mục. Nhưng những khó khăn trước
mắt trong công trình nầy chỉ thể vượt qua được, nếu sau một thời gian
tương ứng hay lâu hơn để đồng hoá CEC, chúng ta sẽ phải chuẩn bị môi
trường thần học, giáo lý và ngôn ngữ, để tiến tới một công trình thực sự
hội nhập văn hoá của những nội dung giáo lý.
[56]GS 62b.
[57]FD 4b.
[58]RM 54b.
[59]CEC 814.
[60]LG 23a
[61]Bộ Giáo Lý đức tin, lá thư Communionis notio, n. 9; l.c 843.
[62]x. CT 63b.