Tâm
lý học chiều sâu (theo Freud) cho thấy con người có:
Tự
ngã (id):
Bản năng hay ước muốn hướng con người đến thoả mãn những nhu cầu sinh lý và nó
được hình thành theo sự phát triển sinh lý.
Siêu
ngã (superego):
Những chuẩn mực xã hội (có thể chống lại bản năng) được con người tiếp nhận và
lấy làm của mình. Theo sự phát triển nhận thức, con người hình thành nơi mình ý
thức về những điều cần tránh và chiến lược cần theo, để đánh giá những hành
động của mình (và của người khác), cũng như để chế ngự bản năng. Đó chính là
siêu ngã.
Bản
ngã (self)
hay còn gọi là “Cái Tôi” (ego) [1]:
Con người tự ý thức về mình.
Trong
môi trường xã hội, khi đi tìm những giải đáp cho bài toán về việc đáp ứng cho
bản năng đồng thời thoả mãn theo những chuẩn mực xã hội, tự trong con người
phải giải quyết sự xung khắc giữa siêu ngã và bản ngã, tức là những trở ngại và
những hỗ trợ do các chuẩn mực xã hội. Dần dần con người hiểu biết, nhận thức về
mình. Từ đó hình thành một nhân cách riêng biệt, một “cái Tôi”. Đó chính
là bản ngã.
Bản ngã bị chi phối nhiều bởi những xung động của bản
năng tự nhiên chỉ biết thỏa mãn cho những nhu cầu sinh lý của thể xác, giáo dục
gọi đó là “con người thứ nhất có tính tự nhiên”, người chưa trưởng
thành.
Con
người có bản ngã lành mạnh, sử dụng khả năng tinh thần, trí tuệ, thể chất một
cách đầy đủ, hợp lý theo những chuẩn mực xã hội, giữ được thế quân bình trong
hành vi, lời nói, ứng xử... của mình. Con người ấy có nhân cách trưởng thành.
Tự
mình con người không thể phát triển toàn diện nhân cách, mà cần phải được giáo
dục. Giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách
con người.
2. Giáo Dục
Những Gì Cho Học Sinh Chúng Ta ?
Giáo
dục nhân bản là dạy cho học sinh biết các tiêu chuẩn đạo đức, tập cho chúng
sống và biến các tiêu chuẩn ấy trở thành của mình. Cái Tôi nghiêng về, chấp
nhận những xung động của bản năng càng nhiều, con người ấy càng giống con thú,
chỉ biết thỏa mãn cho những nhu cầu sinh lý của thể xác như con thú. Ngược lại,
Cái Tôi hướng về, sống theo siêu ngã, người ấy sẽ trở nên thánh. Giáo dục là
làm cho con người không trở nên thú cũng
không trở thành thánh; chỉ cốt làm cho nó trở thành người, sống đúng với tư
cách là con người.
Trong đạo đức truyền thống của Việt Nam, làm
người phải biết: Cần - Kiệm - Liêm - Chính, nam phải có Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí
- Tín; nữ phải có Công - Dung - Ngôn - Hạnh, nghĩa là dạy cho học sinh biết
sống để trở thành người, một người Việt Nam chân chính tiếp bước truyền thống
anh hùng và tinh thần nhân đạo của cha ông.
Tùy
theo sự lớn khôn về thể lý và nhận thức của các em để giáo dục chúng. Xin đưa
ra bốn giai đoạn của việc giáo dục nhân bản cho học sinh:
2.1/
Giai đoạn 1
Khi các em còn nhỏ, dạy cho chúng “học ăn, học
nói, học gói, học mở”, tức là dạy cho chúng những đức tính cơ bản như: lễ
phép, sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, giờ giấc, chuyên cần, trung tín, ngay thẳng,
thật thà, đơn sơ, tôn trọng, ngăn nắp, cẩn thận, biết thông cảm, khoan dung,
thương người...
2.2/
Giai đoạn 2
Khi
các em khôn lớn hơn, tập cho chúng trưởng thành trong suy tư, trong cảm xúc,
trong hành động, trong giao tiếp.
a.Trưởng Thành
Trong Suy Tư: tức
là tập các em biết suy nghĩ, nhận xét, đánh giá đúng đắn, có tư tưởng trong
sáng, mạch lạc, sâu sắc, biết lý luận...
b. Trưởng Thành
Trong Cảm Xúc: tức là dạy cho các em có thái độ tự nhiên
không rụt rè, bi quan, sợ hãi, bình thản biết dồn nén phóng túng, không bồng
bột, biết làm chủ mình (tự chế), không mặc cảm, luôn biết sống trong trạng thái
bình tâm,.
c. Trưởng Thành
Trong Hành Động:
Là tập cho các em tích cực trong các hoạt động, không ù lì, thụ động, cũng
không bốc đồng, hiếu động, có tinh thần trách nhiệm đối với công việc, biết
nhận lỗi và cũng biết thông cảm thứ tha, kiên trì nhưng đừng cố chấp, ngoan cố.
d. Trưởng Thành
Trong Giao Tiếp (trong các mối tương quan):
- Với chính
mình:
Biết giữ quân bình về mặt tâm lý, dám trực diện với con người thật của mình để
vươn lên. Không tự ti cũng đừng tự tôn.
- Với người
khác:
Biết tôn trọng, lịch sự với người khác, chấp nhận cá biệt của mỗi người, hòa
nhã, không tìm cách chiếm hữu của người khác, biết cởi mở không sống trong tự
thế tự vệ, không luồn lách hay xu nịnh, cũng không khinh thường người khác.
- Với thế giới,
vũ trụ: Biết
gìn giữ, bảo vệ môi trường, biết ca ngợi thán phục thế giới, vũ trụ và tôn
trọng và gìn giữ các thành tựu văn minh trên thế giới, các nơi công cộng, biết
đọc từ các biến cố, hiện tượng xảy ra trong thế giới và vũ trụ những ý nghĩa
cuộc sống và dấu chỉ của thời đại.
2.3/
Giai đoạn 3
Khi
các em trưởng thành, dạy cho các em hiểu một số giá trị nhân bản như: tự do,
hoà bình, tình yêu, sức khoẻ, văn hóa, tiền bạc, nghề nghiệp, giải trí, thẩm
mỹ... và biết đặt các giá trị theo đúng bậc thang của chúng.
2.4/
Giai đoạn 4
Sau khi các em
nhận thức được những giá trị của cuộc sống, còn phải dạy cho các em có những
quan niệm đúng về các giá trị và các khái niệm. Chẳng hạn về con người, về cái
đẹp, về nhân quyền, về tôn giáo, về đạo đức, về hạnh phúc...
3. Chức Năng Của
Giáo Lý Viên Trong Việc Giáo Dục
Các
nhà sư phạm cách chung đều đồng ý với nhau rằng: Nhà giáo dục, cách riêng các
nhà sư phạm để chu toàn thiên chức cao quý của mình phải thực hiện đầy đủ 5
chức năng:
3.1/
Chức Năng Truyền Đạt Kiến Thức Cho Học Sinh
Đây
là chức năng đầu tiên của của nhà giáo dục. Giáo lý viên khi truyền đạt cho học sinh kiến thức
về Đạo, chúng ta đang giáo dục trí dục cho các em. Để cung cấp cho các em một
kiến thức đầy đủ rõ ràng, chính xác, đòi hỏi giáo lý viên phải nắm vững kiến
thức giáo lý, không những thế mà còn không được dất về những kiến thức phổ
thông.
3.2/
Chức Năng Phát Triển Nhân Cách Cho Học Sinh
Tùy
theo lứa tuổi mà giáo lý viên kết hợp việc dạy giáo lý với việc hướng dẫn cho
các em những đức tính căn bản của con người, giúp các em trưởng thành trong suy
tư, trong cảm xúc, trong hành động... Thực hiện chức năng này, đòi hỏi giáo lý
viên phải là những con người mẫu mực trong nhân cách, phải là “tấm gương
sáng cho học sinh noi theo”, có những suy tư đúng đắn, tập làm chủ mình
trong cảm xúc và hành động; tránh những suy nghĩ nông cạn, lệch lạc, những biểu
lộ của sự nóng giận, cau có, và những hành vi khiếm nhã, thô bạo trong đời
sống, nhất là khi đối xử với các em.
3.3/
Chức Năng Phát Triển Khả Năng Giao Tiếp Cho Học Sinh
Trong
quá trình giao tiếp sư phạm, dựa vào Lời Chúa và truyền thống đạo đức, giáo lý
viên tập cho các em học sinh khả năng ứng xử tốt trước những tình huống xảy ra
trong cuộc sống, nhất là những tình huống đột xuất, đồng thời hướng dẫn các em
thiết lập các mối quan hệ với người khác: trong gia đình: với cha mẹ, anh
em..., trong trường học: với thầy cô, bạn bè..., và với những người khác ngoài
xã hội. Chức năng này đòi hỏi giáo lý viên phải là người biết “đối nhân xử
thế”, nhất là phải biết sống các mối quan hệ với lòng yêu mến, điều mà mỗi
giờ giáo lý, giáo lý viên đều phải thực hiện đối với học sinh và rất có ảnh
hưởng đến việc hình thành nhân cách cho học sinh.
3.4/
Chức Năng Phát Triển Kỹ Năng Tổng Hợp Kiến Thức Cho Học Sinh
Dạy
giáo lý là một quá trình giáo dục tổng hợp về nhân bản và đức tin. Giáo lý viên
khi dạy giáo lý, tập cho các em có cái nhìn đức tin về tất cả mọi sự, biết đánh
giá, phân tích các hiện tượng, biến cố... xảy ra trong đời sống dưới ánh sáng
của Tin Mừng và trên quan điểm của Giáo Hội; đồng thời biết rút bài học cho bản
thân. Đây là một chức năng đòi hỏi nơi phải có một đức tin, đức cậy và lòng
mến, sự hiểu biết giáo lý một cách tường tận và một đời sống đạo tốt lành.
3.5/ Chức Năng Củng Cố Và Làm Phát Triển Lý Tưởng Và Niềm
Tin
Con
người sống không thể thiếu lý tưởng và niềm tin, ai đánh mất lý tưởng và niềm
tin, người đó không thể định hướng cho cuộc đời của mình, họ chỉ như “cây
sậy phất phơ trước gió”.
Dạy
giáo lý, trước hết là giáo dục đức tin cho các em, mục đích của việc dạy giáo
lý là giúp các em biết Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và tin nhận Ngài, nhờ
đó mà được sống nhân danh Ngài và đựơc gia nhập vào Giáo Hội là Thân Thể mầu
nhiệm của Ngài.
“Không
ai có thể cho cái mình không có”. Sẽ không mang lại kết quả gì trong việc
dạy giáo lý nếu giáo lý viên trong khi truyền đạt giáo lý lại không đủ xác tín,
nhất là khi đời sống giáo lý viên không trở nên như một chứng từ về lòng tin,
lòng mến.
4. Chương Trình
Giáo Dục Nhân Bản Trong Các Lớp Giáo Lý [2]
4.1/ Lớp Giáo Lý
Khai Tâm – Rước Lễ Lần Đầu
Giúp cho các em biết:
v Lễ phép trong
gia đình
v Thảo kính với
ông bà, cha mẹ … những người trong gia đình
v Cách cư xử và
giao tiếp:
·
Với
anh chị trong nhà: thương yêu, giúp đỡ
·
Khi
có khách đến nhà: chào hỏi lịch sự lễ phép.
·
Với
các bạn trong lớp, trong khu xóm: vui vẻ, hoà nhã, giúp đỡ bạn…
v Sống ngay thẳng
thật thà.
v An mặc sạch sẽ,
gọn gàng.
4.2/ Lớp Giáo Lý
Thêm Sức
v Tiếp tục hướng
dẫn các em sống những đức tinh nhân bản đã học.
v Dạy các em về sự
tôn trọng:
· Kính trọng đối
với người già, người trên: Ông bà, cha mẹ, thầy cô, người lớn tuổi.
· Yêu mến bạn bè,
nhường nhịn người nhỏ hơn mình.
· Giữ sự tôn
nghiêm trong các nơi thờ tự, nghiêm trang trong các nơi hội họp.
v Tập luyện sống
công bằng, ngay thẳng:
·
Triệt
hạ tính nói dối, thề gian, làm chứng gian.
·
Tập
sống công bằng trong gia đình, với bạn bè, với mọi người (về giá trị vật chất)
v Triệt hạ tính
tham lam hung ác, tư thù tư oán.
v Tập cách đi
đứng, ăn mặc, lịch sự ở các nơi công cộng.
4.3/ Lớp Giáo Lý
Bao Đồng
v Luyện tập đức
tính ngay thẳng công minh torng cách đối xử
· Tôn trọng lẽ
phải, lẽ công chính.
· Triệt hạ lòng
ghen ghét, tị hiềm, tật nói xấu, bôi nhọ, đặt điều gian, làm chứng gian
v Lòng biết ơn và
đền đáp công ơn.
v Dấn thân làm
việc thiện.
v Can đảm chống
lại bất công, bất nghĩa.
v Luyện tập sống
bác ái: yêu thương giúp đỡ người khác, nhất là những người tàn tật bệnh hoạn,
các trẻ em người già, người lỡ đường…
v Tiếp tục luyện
tập tư cách ở những nơi công cộng như
nơi công sở, phố xá, chợ búa, công viên, khi đi trên xe tàu.
v Tập óc biệc
phân, nghĩa là tập sự công mình trong cách nhận định, trong cách phân xử đánh
giá một người, một việc, một vấn đề, một biến cố …
v Giúp các em giữ
gìn lương tâm trong sáng.
v Cho các em biết
nhận định về các giá trị cuộc sống.
4.4/ Lớp Giáo Lý
Vào Đời
Giúp các em
v Định hướng cuộc
đời, tìm cho mình một lý tưởng sống.
v Biết chọn bạn để
thăng tiến đời sống.
v Biết sử dụng
cách đúng đắn các phương tiện truyền thông, giải trí và các của cải vật chất.
v Có bậc thang giá
trị để đánh giá các giá trị cuộc sống.
v Cách giao tiếp
trong cuộc sống: đối nhân xử thế, làm thế nào để tạo uy tín…
v Biết nghệ thuật
sống: đắc nhân tâm, gương thành công…
-
Có
óc tổ chức: Biết tổ chức và điều khiển buổi sinh hoạt.
-
Luyện
tập nghệ thuật nói chuyện trước đám đông.
-
Tập
tinh thần trách nhiệm, dấn thân, nhất là tập cho có lương tâm nghề nghiệp.
-
Luyện
tập cho có ý chí và tập tính kiên nhẫn.
-
Luyện
tập cách bộ lộ tình cảm và xây dựng những tình cảm cao đẹp.
-
Tập
tha thứ, khoan dung
5. Kết:
“Con người không
thể leo núi nếu không đi vững trên đất bằng”, không thể là một Kitô hữu tốt
nếu chưa phải là một con người tốt. Công cuộc loan báo Tin Mừng qua việc dạy
giáo lý không thể bỏ qua bổn phận giúp học sinh khám phá các giá trị nhân phẩm
của con người. Khi dạy giáo lý, giáo lý viên phải chuẩn bị cho các học sinh
sống bổn phận đó[3].