1.
Thời Giáo Hội sơ khai: Giáo lý được
trình bày trong những công thức ngắn rút ra từ Tân Ước hoặc lời tuyên xưng và
rao truyền đức tin.
2.
Thời giáo phụ (khoảng thế kỷ III đến VI): các bài
giảng giáo lý cho dự tòng của các Giám mục đã được tiêu chuẩn hoá thành thủ bản
phổ thông.
3.
Thời Trung cổ giáo lý là việc đọc các kinh và
thực hành những thói quen đạo đức (hành hương, đi đàng thánh giá)
4.
Thế kỷ XVI đến trước Công đồng Vatican II: Giáo lý được
trình bày và giải nghĩa một cách đầy đủ và có hệ thống trong các sách giáo lý:
- Năm 1555, quyển “Tổng
luận giáo lý Kitô giáo” của thánh Phêrô Canasiô.
- Năm 1566, sách Giáo lý
Rôma của Công đồng Trentô (1545 – 1563) “Toàn bộ giáo lý và sự hiểu biết về ơn
cứu độ được tóm lược trong 4 mục chính: Kinh Tin Kính, Các Bí Tích, Mười Điều
Răn Và Kinh Lạy Cha”.
- Cũng có nhiều
sách giáo lý do nhiều giám mục biên soạn cho địa phương của mình.
5.
Từ Sau Công Đồng Vatican Ii (1963 – 1965):
- Năm 1986, Sách Giáo Lý
Giáo Hội Công Giáo được soạn thảo theo ước nguyện của Thượng Hội Đồng Giám Mục
(1985).
- Năm 1992, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phê chuẩn
(ngày 25.6) và ban hành tông hiến “Kho tàng đức tin” để giới thiệu.
II. Các Tiêu
Chuẩn Để Trình Bày Giáo Lý [2]
Dựa vào 5 tiêu
chuẩn sau:
1. Sứ điệp Kitô
giáo phải lấy Chúa Kitô là trung tâm và dẫn đưa tới Thiên Chúa Ba Ngôi.
2. Việc loan báo
Tin Mừng Nước Thiên Chúa phải tập trung vào Ơn Cứu độ, ơn dem lại sự
giải thoát.
3. Sứ điệp Kitô
giáo phải mang tính Giáo Hội và lịch sử: Giáo Hội đón nhận, sống và
thông truyền cho mọi người trong mọi thời đại lịch sử.
4. Sứ điệp Tin
Mừng mang tính phổ quát, nên phải vừa hội nhập vào văn hóa các
dân tộc, vừa duy trì được tính toàn vẹn và tinh tuyền của giáo
lý.
5. Sứ điệp phải trình
bày một cách có hệ thống và tổng hợp, các chân lý phải được sắp xếp đúng cấp
bậc giá trị của chúng, và sứ điệp phải vì con người.
III. Kết Cấu Của
Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo [3]
1/
Kết Cấu Như Thế Nào?
Sách
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo được kết cấu thành 4 phần: Tuyên xưng Đức tin, cử
hành mầu nhiệm Kitô giáo, đời sống mới trong Chúa Kitô và cầu nguyện. Bốn
phần này là bốn chiều kích của mầu nhiệm trung tâm là Mầu nhiệm Kitô giáo.
2/ Kết Cấu Như
Thế Để Làm Gì?
Từ
trung tâm là Mầu nhiệm Kitô giáo phát xuất ra 4 chiều kích của đời sống Kitô
giáo, 4 chiều kích này liên hệ chặt chẽ với nhau và được thể hiện trong 4 thái
độ chính yếu:
2.1/ Tuyên xưng
đức tin và
tin vào Thiên Chúa tạo dựng, Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi, đồng thời cũng tin
vào ý định cứu độ của Người.
2.2/ Cử hành
phụng vụ và bí tích
để được Thiên Chúa thánh hoá trong đời sống Bí tích.
2.3/ Sống theo
luân lý Phúc Am
để yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu người như mình vậy.
2.4/ Cầu nguyện trong chờ đợi
Nước Thiên Chúa mau đến, chờ đợi sớm được gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa.
Sách
GLGHCG được kết cấu như thế để giúp giáo dục người Kitô hữu một cách toàn
vẹn về mọi mặt: đức tin, phụng vụ, luân lý và cầu nguyện. Bốn
mặt này liên quan đến 4 nhiệm vụ căn bản của giáo lý, đó là giúp hiểu biết đức
tin, cử hành phụng vụ, sống đức tin và chiêm ngắm Mầu nhiệm Chúa Kitô.
3. Có Kết Cấu
Theo Cách Khác Không?
Cũng
có thể kết cấu sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo bằng nhiều cách khác nhau miễn
sao vẫn hoàn toàn trung thành với đạo lý Công Giáo. Chẳng hạn:
- Theo diễn biến lịch sử cứu độ.
- Theo diễn tiến năm phụng vụ.
- Phối hợp lịch sử cứu độ với năm
phụng vụ.
IV. Những Chủ
Điểm Nội Dung Của Giáo Lý
1. Mầu Nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi
Mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm hiệp thông giữa Cha – Con và Thánh Thần.
Đây là nền tảng các mầu nhiệm khác.
2. Y Định Cứu Độ
Của Thiên Chúa Ba Ngôi
Ý
định cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi thể hiện qua từng giai đoạn của lịch sử cứu
độ: (1) sáng tạo và chuẩn bị cứu độ – (2) Thực hiện ý định cứu độ – (3) tiếp
tục hoàn tất ơn cứu độ cho đến tận thế.
3. Chúa Kitô –
Trung Tâm Điểm Của Việc Dạy Giáo Lý [4]
Trong việc dạy giáo lý chú ý đến việc giới thiệu về con
người của Chúa Giêsu, thành Nazareth, tất cả những điều khác (về Đức Mẹ, về các
thánh…) chỉ được nói trong qui chiếu về Chúa Kitô.
Ngài
là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ: Dạy về các mầu nhiệm cuộc đời của Người:
Nhập Thể – Cuộc đời công khai: các nhân đức và những lời giảng dạy, cùng những
dấu lạ Ngài làm, về mầu nhiệm Khổ nạn – Phục sinh – Lên trời – và việc Người
Quang Lâm[5]. Trong đó
mầu nhiệm Phục Sinh là trung tâm của đức tin Kitô giáo. Cựu Ước loan báo về
Người và Tân Ước hướng về Người như cứu cánh và là cùng đích.
Ngài là Lời mạc khải duy nhất, cuối cùng và trọn vẹn của
Thiên Chúa. Nơi Ngài Thiên Chúa nói hết về mình cho nhân loại
4. Chúa Kitô
Tiếp Tục Hành Động Cứu Chuộc Qua Thánh Thần Và Giáo Hội
Giáo
Hội là Dân Thiên Chúa, là Thân Thể Chúa Kitô, là Mẹ sinh ra các tín hữu “bởi
nước và Thánh Thần” (Ga 3,5). Trong Giáo Hội, đời sống của Kitô hữu có thể
tăng trưởng và phát huy nhờ trao đổi “các
lợi ích thiêng liêng” của sự “hiệp thông giữa các thánh” [6]
Giáo
lý khơi dậy và nuôi dưỡng nơi các tín hữu niềm tin vào sứ mạng, vào năng quyền
mà Chúa Kitô ban cho Giáo Hội và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, đó là quyền
giáo huấn và tha thứ thật sự các tội lỗi nhờ thừa tác vụ của các tông đồ và
những vị kế nhiệm các tông đồ qua bí tích Truyền Chức Thánh[7].
5. Các
Bí Tích Ban An Sủng Đem Lại Đời Sống Mới Trong Chúa Kitô
Giáo
lý nhằm dẫn đưa người ta vào mầu nhiệm Chúa Kitô bằng cách tiến từ cái hữu hình
tới sự vô hình, từ biểu tượng đến thực tại được gợi ý, từ “các bí tích”
đến “các mầu nhiệm”. Trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, Chúa
Kitô hành động (cách sung mãn) để ban ân sủng và hoán cải con người [8].
6. Đời Sống Mới
Trong Chúa Kitô
Giáo
lý dạy về các ân sủng - tội lỗi và ơn tha thứ, các Mối phúc, các nhân đức, nhất
là những nhân đức đối thần, các giới luật, nhất là luật mến Chúa yêu người để
hướng dẫn người tín hữu sống một đời sống mới trong Chúa Kitô.
7. Cầu Nguyện
Cầu
nguyện là yếu tố liên kết toàn bộ đời sống Kitô hữu. Người Kitô hữu cầu nguyện
với Thiên Chúa đúng như Chúa Kitô dạy trong Kinh Lạy Cha [9].
[1] X. Dòng
Phanxicô, Huấn Giáo (sách lưu hành nội bộ), và Lm. Ant. Nguyễn
Mạnh Đồng, Sđd, trang 16 - 25.
[2] Thánh bộ Giáo
sĩ, Hướng dẫn Tổng quát, 1997, số 97; x. Lm. Ant. Nguyễn Mạnh Đồng, sđd,
trang 36 – 39.
[3] Thánh bộ Giáo
sĩ, sđd, số 122.
[4] Thánh bộ Giáo
sĩ, Sđd, số 98; x. Lm. Ant. Nguyễn Mạnh
Đồng, Sđd, trang 59 - 62; GLHTCG số 427.
[5] ĐGH J.P II, CT,
số 5; x. GLHTCG số 426.
[6] GLHTCG 946 –
953.
[7] GLHTCG số 983.
[8] GLHTCG số 1074
-1075
Hướng dẫn làm bài nhóm
Việc vận dụng
phương pháp sư phạm trong việc dạy giáo lý hiện nay. Đánh giá, phê phán việc vận dụng và hiệu quả.
1/ Làm so sánh
kiến thức sư phạm và việc đào tạo đội ngũ giáo lý viên ở trường đời và giáo lý
viên:
...............................................................................................
...............................................................................................
2/ Khả năng vận
dụng các đề nghị canh tân phương pháp (của huấn giáo) theo Công đồng Vatican II
trong việc dạy giáo lý tại Việt Nam
như thế nào?
2.1/ Tìm hiểu
nguyên nhân thiếu sót
...............................................................................................
...............................................................................................
2.2/ Đưa ra đề
nghị “canh tân” gì? (Tham khảo “Hướng dẫn dành cho GLV”, Thánh bộ
Truyền bá Tin Mừng, 1993)
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................