Kiểm tra là một hoạt động trong
quá trình nhận thức nhằm phát hiện nơi các em học sinh những sai sót, trục
trặc, khó khăn trong hiểu biết và nhận thức về các kiến thức các em đã lĩnh
hội, hầu giáo lý viên tác động, điều chỉnh cách kịp thời, chủ động để tránh
những lệch lạc trong đức tin và trong việc sống đạo.
Một cách cụ thể, kiểm tra trong giáo lý nhằm:
+ Phát hiện xem các em tiếp thu giáo lý và hình thành kiến thức về đạo như
thế nào?
+ Biết sự phát triển về nhân cách và niềm tin của các em học sinh giáo lý,
qua việc các em bày tỏ thái độ sống giáo lý trong môi trường xã hội các em đang
sống ra sao sau mỗi giờ, mỗi bài, mỗi khóa học giáo lý.
* Lưu ý: Việc
theo dõi giám sát đời sống đạo của các em là một hình thức kiểm tra và là trách
nhiệm của giáo lý viên.
II. Vai Trò Và Y Nghĩa Của Việc Kiểm Tra
Việc kiểm tra thúc đẩy các em
phát huy cao độ tính tích cực, nỗ lực tham gia vào việc học hỏi giáo lý, gia
tăng lòng tin và lòng yêu mến Chúa nhờ hiểu biết Chúa hơn. Nhờ đó các em ngày
càng ý thức và khát khao được biết Chúa, sống kết hợp và yêu Chúa nhiều hơn.
Bài kiểm tra do các em tự làm,
cho nên bắt buộc các em phải cố gắng, nỗ lực để tự quyết định cho ý kiến của
mình, không thể trông cây vào sự giúp đỡ của giáo lý viên hay bạn bè. Vì thế mà
bài kiểm tra là một dịp để các em rèn luyện ý chí, khả năng tự lập và phát
triển óc suy luận, sáng tạo, trí thông minh, tưởng tượng...
Việc kiểm tra giúp giáo lý viên
xác nhận và đánh giá được thực trạng về việc dạy giáo lý của chính mình (một
phần nào đó ít chủ quan hơn), cũng như đánh giá được việc học và sống giáo lý
của các em. Nắm bắt được phần nào khả năng của các em và của từng em. Qua đó đề
ra những biện pháp thích hợp để giúp các em thăng tiến trong đời sống nhân bản
và đức tin.
Việc kiểm tra giúp cho giáo lý
viên phát hiện kịp thời những lỗ hỏng kiến thức về đạo, những lầm lẫn trong
nhận thức, niềm tin, những tiêu cực trong đời sống... Từ đó đề ra những biện
pháp hiệu chỉnh như bổ sung kiến thức, thay đổi phương pháp hướng dẫn, thay đổi
nội dung và hình thức bài tập... sao cho việc học hỏi giáo lý và sống giáo lý
của các em sống động và đạt được những hoa trái thiêng liêng.
III. Các Nguyên Tắc Và Yêu Cầu Cơ Bản Trong Kiểm Tra
1. Các Nguyên Tắc
Phải tiến hành thường xuyên và
có hệ thống mới phát hiện kịp thời những sai sót, lầm lẫn, những lỗ hỏng kiến
thức.
Kiểm tra với mọi đối tượng học
sinh và hết tất cả những trọng tâm. Phù hợp với trình độ của mọi đối tượng học
sinh trong lớp, đừng dễ qua khiến các em coi thường, cũng đừng khó quá khiến
các em chán nản, thoái chí.
Trong đánh giá phải bảo đảm
tính khách quan, trung thực, chính xác, đúng với thực chất học sinh. Và phải có
thông tin ngược trở lại cho các em.
2. Những Yêu Cầu Và Chú Y Cơ Bản
Thường xuyên và có hệ thống:
sau mỗi bài, mỗi chương, mỗi phần, mỗi kỳ và cuối khóa.
Tiến hành một các có nề nếp để
tạo thói quen nơi các em biến việc kiểm tra thành một nhu cầu, có như vậy, khi
kiểm tra các em không bị ức chế tâm lý và nhận ra kiểm tra là có lợi. Cũng cần
lưu ý là đừng tạo thành “luật”, vì như thế các em sẽ dễ có thái độ ỷ
lại, đối phó.
Kiểm tra
bằng nhiều hình thức và tùy từng nội dung, điều kiện.
Kiểm tra
tất cả học sinh, cần chú ý đến các em học sinh cá biệt.
Tránh tạo ra cho các em thái độ
vụ điểm.
Sau khi kiểm tra phải có thông
tin phản hồi kịp thời (sửa bài, chấm bài, báo điểm). Đánh giá kết quả bài kiểm
tra phải có thang điểm (có đáp án, biểu điểm).
Mỗi lần kiểm tra phải có mục
đích rõ ràng. Đừng để các em làm bài cốt ý chỉ để giữ trật tự.
Tránh không được dùng hình thức
kiểm tra để hù dọa hay trừng phạt các em.
Cũng nên coi chừng đừng bắt các
em làm bài quá nhiều.
Có thể có những trường hợp các
em không làm bài kịp để nộp đúng giờ qui định,lúc ấy giáo lý viên cần phải bình
tĩnh, cỡi mở, khoan dung, nhưng cũng thật thẳng thắn nghiêm nghị để tìm ra cách
giải quyết thích hợp. Tránh nóng giận, la mắng các em.
IV. Các Hình Thức Kiểm Tra
1. Kiểm Tra Miệng
Kiểm tra miệng là hình thức
kiểm tra rộng rãi trong quá trình dạy giáo lý, cho phép giáo lý viên phát hiện
sự hiểu biết của mỗi em về đạo lý khi tiếp xúc trực tiếp với chúng. Đồng thời
cũng giúp giáo lý viên phần nào nhận thấy lòng đạo đức của các em.
2. Kiểm Tra Viết
Kiểm tra viết là hình thức kiểm
tra yêu cầu các em diễn đạt một khối lượng kiến thức giáo lý nhất định bằng
ngôn ngữ viết trong một thời gian nhất định. Bài kiểm tra viết thường được ra
dưới dạng câu hỏi hay đề tài.
Có thể thực hiện sau một bài,
một chương hay toàn khóa.
Bài kiểm tra 15’ và bài tập về
nhà giáo lý viên có thể thực hiện tùy điều kiện thời gian và yêu cầu của bài
học.
Bài kiểm tra 1 tiết phải thực
hiện theo lịch trình giáo lý
* Lưu ý: Khi lập chương trình giáo lý cho năm học, phải trù liệu
và sắp xếp sao cho trong chương trình có những giờ (tiết) kiểm tra viết.
3. Các Hình Thức Kiểm Tra Trắc Nghiệm
Trong việc giáo dục thường có
các loại trắc nghiệm sau:
- Loại điền vào chỗ trống (completion question).
- Loại đúng sai (true-false question).
- Loại câu hỏi ngắn (short – question).
- Loại lựa chọn (multiple-choice question).
- Loại ghép cột (matching
question).
(Kiểm tra miệng cũng là một hình
thức trắc nghiệm)
Đây
là các loại trắc nghiệm do giáo lý viên lập.
V. Kết Luận
Kiểm
tra giáo lý là một khâu trong qui trình giáo dục đức tin nhằm giúp giáo lý viên
biết được kết quả giáo dục. Nếu không biết kết quả thì giáo dục sẽ trở nên vô
ích vì giáo lý viên sẽ không nhận biết được hiệu năng và kết quả giáo dục của
mình để hiệu chỉnh là cho công tác dạy giáo lý của mình sinh được nhiều hoa
trái hơn. Vì thế Giáo lý viên không nên xem thường hay tiến hành việc kiểm tra
một cách hời hợt, trái lại, phải thực hiện nó một cách có kế hoạch và phải xem
nó quan trọng ngang bằng với các phương pháp giảng dạy.
Phụ Chú
KIỂM TRA TRẮC
NGHIỆM [1]
I. TRẮC NGHIỆM LÀ GÌ?
1. Xác Định Hình Thức Trắc
Nghiệm
Theo nghĩa Hán Việt: “Trắc” có nghĩa là đo lường – “Nghiệm”
có nghĩa là suy xét, chứng thực.
Hiểu trắc nghiệm như thế thì kiểm tra bằng hình thức viết luận đề
hay kiểm tra bằng hình thức chọn lựa, ghép cột, điền vào chỗ trống đều là hình
thức kiểm tra trắc nghiệm.
Để phân biệt các hình thức kiểm tra, các chuyên gia đo lường gọi tên là:
hình thức “kiểm tra luận đề” (essay – type test), và hình thức “trắc
nghiệm khách quan” (objective test).
Hình thức kiểm tra trắc nghiệm khách quan, thường quen gọi là “kiểm
tra trắc nghiệm”. Đây là hình thức kiểm tra kết quả học tập tương đối mới
mẻ, nhưng không phải là hình thức kiểm tra đánh giá duy nhất, và nó cũng không
thể thay thế hoàn toàn hình thức kiểm tra luận đề. Nhưng tùy theo mục tiêu và
nhu cầu mà sử dụng thì sẽ mang lại cho chúng ta việc đánh giá một cách hữu
hiệu.
2. Khi Nào Nên Sử Dụng Hình
Thức Kiểm Tra Luận Đề Hay Trắc Nghiệm?
Theo ý kiến các chuyên gia về trắc nghiệm thì
2.1/ Khảo sát kết quả học tập bằng hình thức luận đề
trong những trường hợp sau:
(1)
Học sinh trong một
lớp học không quá đông và đề thi chỉ được sử dụng một lần; không dùng lại lần
nữa.
(2)
Khi muốn khuyến
khích và tưởng thưởng sự phát triển kỹ năng diễm tả bằng văn viết.
(3)
Khi muốn thăm dò
thái độ hay tìm hiểu tư tưởng của học sinh vể một vấn đề hay một đề tài.
(4)
Khi giáo viên tin
tưởng vào khả năng phê phán và đánh giá luận đề cách vô tư và chính xác hơn khả
năng soạn thảo các câu trắc nghiệm thật tốt.
(5)
Khi không có thời
gian để soạn thảo các bài kiểm tra trắc nghiệm, nhưng có thời gian để chấm bài.
2.2/ Khảo sát kết quả học tập bằng hình thức trắc nghiệm
trong các trường hợp sau:
(1)
Khi cần kiểm tra
kết quả học tập của một số đông học sinh, hay muốn sử dụng bài kiểm tra này vào
một lúc khác, ở một nơi khác.
(2)
Khi muốn có những
điểm số đang tin cậy, không phụ thuộc vào chủ quan người chấm bài.
(3)
Khi các yếu tố công
bằng, vô tư, chính xác là những yếu tố quan trọng nhất của việc thi cử.
(4)
Khi ta có nhiều câu
trắc nghiệm tốt đã được dự trữ sẳn để có thể lựa chọn và soạn lại một bài kiểm
tra trắc nghiệm mới và muốn chấm bài nhanh để công bố kết quả.
(5)
Khi ta muốn ngăn
ngừa nạn học tủ, học vẹt và gian lận trong thi cử.
2.3/ Các trường hợp cả trắc nghiệm lẫn luận đề đều có thể
sử dụng đe:
(1)
Đo lường mọi kết
quả học tập mà một bài kiểm tra luận đề có thể đo lường được.
(2)
Khảo sát khả năng
hiểu và áp dụng các nguyên lý.
(3)
Khảo sát khả năng
suy nghĩ có phê phán.
(4)
Khảo sát khả năng
giải quyết các vấn đề mới.
(5)
Khảo sát khả năng
lựa chọn những dữ kiện thích hợp và các nguyên tắc để phối hợp chúng lại với
nhau nhằm giải quyết những vấn đề phức tạp.
(6)
Khuyến khích học
tập để nắm vững kiến thức.
II. QUY HOẠCH MỘT BÀI KIỂM TRA
TRẮC NGHIỆM:
Khi soạn thảo một bài kiểm tra trắc nghiệm, giáo viên cần xem xét các vấn
đề:
1. Mục Đích Của Trắc Nghiệm
Là một bài thi cuối kỳ, thì câu hỏi phải được soan thảo làm sao để các điểm
số phân tán khá rộng, như vậy mới phát hiện được học sinh giỏi kém.
Là một bài kiểm tra thông thường để kiểm tra kiến thức về một phần nào của
giáo trình, thì câu hỏi phải được soạn sao cho hầu hết học sinh đạt được điểm
cao, nếu chúng đã thực sự tiếp thu được những điểm căn bản của bài học.
Nếu nhằm mục đích chẩn đoán, tìm ra chỗ mạnh chỗ yếu của học sinh, thì câu
hỏi phải được soạn thảo tạo cơ hội cho học sinh phạm những sai lầm về môn học
nếu không học kỹ.
Có thể dùng trắc nghiệm để học
sinh hiểu thêm bài học hay có thêm kiến thức, nhưng không cần phải ghi điểm mà
chỉ cần những hình thức khen thưởng khác sẽ có hiệu quả hơn.
2.
Phân Tích Nội Dung Môn Học
Phân
tích môn học cần xem xét và phân tích bốn loại kiến thức:
(1)
Những
thông tin, kiến thức mang tính chất tái hiện.
(2)
Những
khái niệm, ý tưởng mà học sinh phải giải thích hay minh họa.
(3)
Những
ý tưởng phức tạp cần được giải thích hay giải nghĩa.
(4)
Những
thông tin, ý tưởng và kỹ năng cần được ứng dụng hay chuyển dịch sang một tình
huống hay hoàn cảnh mới.
Để
dễ dàng phân tích nội dung, chúng ta có thể theo thứ tự các bước:
Bước
thứ nhất: Tìm ra những ý tưởng chính yếu của môn
học ấy.
Bước
thứ hai: Tìm ra những
khái niệm quan trọng trong nội dung môn học để đem ra khảo sát.
Bước
thứ ba: Phân loại hai
dạng thông tin:
(1)
Những
thông tin nhằm mục đích giải nghĩa hay minh hoạ.
(2)
Những
khái luận quan trọng của môn học.
để
lựa chọn những điều quan trọng học sinh cần nắm vững.
Bước
thứ tư: Lựa chọn một số
thông tin và ý tưởng đòi buộc học sinh phải có khả năng ứng dụng kiến thức để
giải quyết vấn đề trong tình huống mới.
3.
Thiết Lập Dàn Bài
Phương pháp thông dụng là lập
bảng quy định hai chiều: một chiều biểu thị cho nội dung, một chiều biểu thị
cho quá trình tư duy.
Mỗi phạm trù phân nhỏ thành nhiều
phạm trù khác.
[1] Dương Thiệu Tống, (1995).Trắc Nghiệm và Đo Lường Thành Quả Học Tập. Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, 2005, Tp. HCM. Các chương I, IV, V, VI, VII.
[1] Dương Thiệu Tống, (1995).Trắc Nghiệm và Đo Lường Thành Quả Học Tập. Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, 2005, Tp. HCM. Các chương I, IV, V, VI, VII.
Trong mỗi
ô quy định phạm trù kiểm tra ta sẽ dự liệu số (hay tỉ lệ phần trăm) câu hỏi
trắc nghiệm.
Cho
bài kiểm tra thi cuối kỳ của môn học
Nội Dung
Mục
Tiêu
|
Bài
học
1
|
Bài
học
2
|
Bài
học
3
|
Bài
học
4
|
vv…
|
Tổng
cộng
|
Tỉ
lệ
|
||
Hiểu Biết
|
Từ
ngữ, quy ước…
|
1
|
|
2
|
|
|
3
|
|
|
Tính
chất
đặc điểm… |
2
|
2
|
1
|
1
|
|
6
|
|
||
Sự
kiện, dữ kiện
|
|
|
1
|
2
|
|
3
|
|
||
Khuynh
hướng, diễn biến
|
|
1
|
|
1
|
|
2
|
|
||
Định
luật,
nguyên tắc |
1
|
1
|
2
|
2
|
|
6
|
50%
|
||
Khả năng
|
So
sánh tương đồng, dị biệt
|
2
|
|
|
1
|
|
3
|
|
|
Giải
thích
|
|
|
1
|
1
|
|
2
|
|
||
Tính
toán
|
|
|
|
|
|
|
|
||
Tiên
đoán
|
2
|
2
|
2
|
2
|
|
8
|
|
||
Phê
phán
|
1
|
3
|
1
|
2
|
|
7
|
50%
|
||
Tổng
cộng
|
9
|
9
|
10
|
12
|
|
40
|
100%
|
Mẫu
2
Cho
bài kiểm tra một bài học, hay một chương, một phần của môn học
Mục tiêu
Nội dung
|
Khái niệm, từ
ngữ, ý tưởng đơn giản học sinh phải giải thích
|
Kiến thức về
các sự kiện, nhân vật, địa điểm…
|
Các ý tưởng
phúc tạp, nguyên tắc, mối liên hệ, quy luật…
|
Chủ
đề 1
|
|
|
|
Chủ
đề 2
|
|
|
|
Chủ
đề 3
|
|
|
|
…
vv
|
|
|
|
4.
Số Câu Hỏi Trong Một Bài Kiểm Tra
Số câu hỏi trong bài kiểm tra
trắc nghiệm phụ thuộc vào các yếu tố:
- Thời gian càng dài càng có
nhiều câu hỏi, chỉ số tin cậy càng cao. Nhưng khó để có thể thực hiện một bài
trắc nghiệm liên tục trong 3 giờ liên tục. Thời gian cho thi trắc nghiệm có thể
2 giờ.
- Số câu hỏi trắc nghiệm phải bao
gồm toàn thể kiến thức mà học sinh phải có qua môn học hay bài học. Nếu số câu
hỏi không tiêu biểu cho toàn thể kiến thức thì không thích hợp.
- Một bài kiểm tra trắc nghiệm
đúng yêu cầu thì:
v
Với
câu hỏi chọn lựa, học sinh chậm nhất có thể trả lời trong 1 phút. Nếu có những
câu dài hơn, phức tạp hơn thì giáo viên phải dự liệu lại thời gian giả định (1
phút) cho câu ấy.
v
Với
câu hỏi đúng sai trong vòng ½ phút (30 giây).
v
Với
những câu hỏi ghép cột (hay đối chiếu), điền vào chỗ trống (hay điền khuyết)
thì tùy vào số lượng yêu cầu trả lời của câu hỏi để tính toán thời gian.
5.
Mức Độ Khó Của Các Câu Hỏi Trắc Nghiệm
Mức độ khó của bài kiểm tra trắc
nghiệm tùy vào mục đích của việc kiểm tra.
Để đạt được hiệu quả đo lường nên
chọn lựa câu trắc nghiệm làm sao để:
- Với câu trắc nghiệm đúng - sai
độ khó yêu cầu là 75% học sinh trả lời đúng câu hỏi ấy:
(100 + 50) : 2 = 75% (trong đó 50
là tỉ lệ may rủi)
- Với câu hỏi chọn lựa (4 chọn
lựa) (100 + 25) : 2 = 60% tức là khoảng 60% học sinh trả lời đúng câu hỏi ấy.
- Với câu hỏi ghép cột, điền vào
chỗ trống độ khó yêu cầu là 50% học sinh trả lời đúng câu hỏi ấy.
Đối với cả bài trắc nghiệm thì điểm
trung bình lý tưởng là điểm trung bình giữa điểm tối đa và điểm may rủi.
Ví dụ:
Bài kiểm tra có 20 câu.
Mỗi câu có 4 chọn lựa thì điểm
may rủi là 20 : 4 = 5
Như vậy điểm trung bình lý tưởng
là (20 + 5): 2 = 12,5
Nếu điểm trung bình các bài kiểm
tra của thí sinh trên hay dưới 12,5 điểm qua xa thì bài ấy sẽ được đánh giá là
quá khó hay quá dễ.
III.
CÁC HÌNH THỨC CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM THÔNG THƯỜNG
Trong việc dạy - học thường có
các loại trắc nghiệm do giáo viên lập để kiểm tra như sau:
- Loại đúng - sai (true-false
question / yes – no question).
- Loại lựa chọn (multiple-choice question).
- Loại ghép cột – hay đối chiếu cặp đôi (matching question).
- Loại điền vào chỗ trống hay điền khuyết (completion question).
- Loại câu hỏi – trả lời ngắn
(short – answer question).
(Kiểm tra miệng cũng là một hình
thức trắc nghiệm)
1.
LOẠI CÂU HỎI ĐÚNG SAI (true-false question / yes – no question)
Loại câu hỏi đúng sai được trình
bày dưới dạng câu phát biểu và học sinh phải trả lời bằng cách lựa chọn đúng
(Đ) hay sai (S).
1.1/
Những Khuyết Điểm
(1)
Loại
câu hỏi này tỉ lệ may rủi 50%, chọn câu trả lời thường bằng sự suy đoán.
(2)
Nếu
người soạn chỉ trích nguyên văn câu có sẳn trong tài liệu, sách giáo khoa sẽ
làm câu hỏi trở nên tầm thường, sáo ngữ.
(3)
Khi
trích dẫn nguyên văn sẽ dẫn học sinh đến việc học thuộc lòng như vẹt, hay chỉ
cần nhận ra một vài chữ trong câu là đủ xác định Đúng – Sai.
(4)
Nếu
soạn câu hỏi không được rõ ràng chính xác trong cách dùng từ, hay thiếu một số
thông tin căn bản, khó có thể quyết đoán câu phát biểu ấy là đúng hay sai.
(5)
So
với trắc nghiệm lựa chọn thì trắc nghiệm đúng – sai bị tách ra khỏi bản văn và
không có căn bản để so sánh tính đúng - sai tương đối của chúng.
1.2/
Những Ưu Điểm
(1)
Có
thể đặt được nhiều câu hỏi trong một bài học với thời gian ấn định, như thế có
thể làm tăng độ tin cậy của bài trắc nghiệm ấy.
(2)
Soạn
thảo câu hỏi đúng - sai dễ dàng và mau chóng.
1.3/
Đề Nghị Việc Sử Dụng
(1)
Chỉ
nên sử dụng cách dè dặt.
(2)
Soạn
thảo câu hỏi trắc nghiệm đúng – sai phải dựa trên những ý niệm mà tính đúng đắn
hay sai trái phải chắc chắn.
(3)
Phải
lựa chọn câu phát biểu mà một học viên khả năng trung bình nếu chưa suy nghĩ
đôi chút thì không thể nhận ra ngay là đúng – sai.
(4)
Mỗi
câu phát biểu chỉ nên diễn tả một ý tưởng.
(5)
Không
nên chép nguyên văn những câu trích từ tài liệu hay sách giáo khoa.
Ví
dụ: Nhân vật Đavit
1.
Thời
Đavít, khi đánh nhau, người ta chưa biết dùng khiên thuẫn, chỉ biết dùng ná.
£ Đúng £ Sai.
2.
Chiếc
“ná” (fronde) mà Đavít đã dùng để đánh Goliat giống như một chiếc cung nhỏ.
£ Đúng £ Sai.
3.
Vào
thời Đavít, “thương mại” chỉ là đổi chác chứ chưa phải buôn bán.
£ Đúng £ Sai
4.
Mặc
dù vua Saolê cứ tìm giết Đavít, nhưng Đavít chỉ báo thù Saolê có một lần duy
nhất.
£ Đúng £ Sai.
5.
Ngôn
sứ Isaia đã nói tiên tri rằng sau này sẽ có một Đavít mới, là Đấng Messia đầy
tràn thần khí.
£ Đúng £ Sai
Đáp án
1. Sai. Đã biết
dùng từ lâu.
2.
Sai. Nó chủ yếu là một sợi dây, được dùng như một khí cụ dùng để bắn đá.
3. Đúng.
4. Sai. Đavít
không hề báo thù Saolê lần nào cả.
5. Đúng
2.
LOẠI TRẮC NGHIỆM CHỌN LỰA (multiple-choice question)
Là loại câu hỏi bao gồm hai phần:
phần gốc và phần lựa chọn
Phần gốc là câu hỏi hay câu bỏ
lững, nó phải đặt ra một vấn đề hay đưa
ra một ý tưởng rõ ràng cho học viên có thể hiểu rõ và lựa chọn câu trả lời
thích hợp.
Phần lựa chọn gồm nhiều giải đáp
(thường là 4 hoặc 5 lựa chọn), trong đó có một chọn lựa được coi là đúng hay
đúng nhất, những giải đáp còn lại là những “mồi nhử” nó cũng đều hấp dẫn ngang
nhau đối với học sinh chưa học kỹ, hiểu kỹ bài học.
Thông thường phần gốc được viết
ngắn để giảm bới thời giờ đọc của học viên và dành nhiều thời giờ hơn cho việc
chọn lựa giải đáp đúng.
Ví
dụ: Các nhân vật
Thánh Kinh
1. Danh xưng "Áp-ra-ham" có nghĩa là gì ?
- con loài người.
- cha của vô số dân tộc.
- con trai của ông A-đam.
- cha của tất của những người sống.
2. Ai được sinh ra
bởi ông Áp-ra-ham và bà Xa-ra ?
- Ísrael.
- Ísmael.
- Isaac.
- Giacóp.
3. Ông đã vật lộn suốt đêm với một người
thiên giới
- Isaac.
- Môsê.
- Êlia.
- Giacop.
4. Người đã được Đức Chúa biết rõ giáp mặt là
- Abraham.
- Giacop.
- Môsê.
- Giuse.
5. Ông gảy đàn trước mặt Saolê đang bị ám ảnh, và quỷ dữ
rời khỏi nhà vua. Đó là:
- Đavít.
- Samuel.
- Gionathan.
- Nathan.
Đáp
án:
1.
b - St 17,5 2.
c - St 17,19 ; 21,2-3
3. d - St 32,24 4.
c - Đnl 34,10 5. a - Sm 16,23
3. LOẠI GHÉP CỘT
HAY ĐỐI CHIẾU CẶP ĐÔI (matching question)
Đây là một hình
thức trắc nghiệm với nhiều chọn lựa. Học viên phải chọn lựa câu nào, hay từ nào
trong cột lựa chọn (bên trái) phù hợp nhất với mỗi trắc nghiệm ở cột bên kia
(bên phải).
Khi soạn thảo
loại câu trắc nghiệm này cần lưu ý:
- Nên dành nhiều
chọn lựa bên cột trắc nghiệm (bên phải) hơn bên cột chọn lựa (bên trái).
- Tránh đưa ra
quá nhiều khiến học sinh mất nhiều thời giờ đọc và tìm câu tương ứng để ghép
lại.
Ví
dụ:
STT
|
Tường Thuật
Tạo Dựng
|
Vấn đề Thời
Lưu Đày
|
STT
|
a
|
Chúa
phán hãy có... và đã có”
|
Chiến
thắng của người Babylon kéo
theo một cuộc khủng hoảng về đức tin nơi quyền năng Thiên Chúa
|
i
|
b
|
Thiên
Chúa làm ra hai cái đèn trời... cái lớn để cai quản ban ngày, cái nhỏ để cai
quản ban đêm
|
Israel mất
đi ý thức về phẩm giá của mình trong thời lưu đày
|
ii
|
c
|
Chúng
ta hãy làm con người theo hình ảnh của chúng ta
|
Cám
dỗ thờ thần mặt trời và mặt trăng giống như những người ngoại giáo để được
phôn vinh như họ
|
iii
|
d
|
Hãy
bá chủ...
|
Giữ
ngày sabat
|
iv
|
e
|
Thiên
Chúa chúc phúc cho ngày thứ bảy
|
|
|
f
|
Thiên
Chúa thấy mọi sự Ngài làm ra đều tốt lành
|
|
|
Đáp
án:
a – i ; b – iii ; c – ii ; d – ii ; e – iv; f – ii
4.
LOẠI ĐIỀN VÀO CHỖ TRỐNG (completion question)
Câu trắc nghiệm vào chỗ trống
(còn gọi là điền khuyết) là loại trắc nghiệm khảo sát khả năng “nhớ”, có thể có
hai dạng:
Những câu hỏi với một trả lời
ngắn (short – answer question).
Những câu phát biểu với một hay
nhiều chỗ trống mà học sinh phải điền vào bằng một từ hay một nhóm từ ngắn.
Có người vẫn cho loại trắc nghiệm
này quan trọng hơn là loại trắc nghiệm khảo sát khả năng nhận ra qua những lựa
chọn. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu trong lĩnh vực trắc nghiệm cho thấy
rằng khi soạn thảo kỹ càng thì các trắc nghiệm về khả năng “nhớ” và “nhận ra”
có tương quan với nhau rất cao và chúng đều đo lường cùng một yếu tố căn bản.
Hạn
Chế:
Việc chấm bài rất khó khăn (không
thể đục lỗ hay chấm bằng máy) và mất thì giờ.
Điểm số không đạt được tính khách
quan tối đa.
Ưu điểm và phạm vi sử dụng:
Có thể sử dụng loại điền vào chỗ
trống để trắc nghiệm trong một số trường hợp sau:
(1)
Khi
câu trả lời rất ngắn và tiêu chuẩn đúng hay sai rõ rệt.
(2)
Khi
không tìm được mồi nhử tối thiểu cần thiết cho các câu trắc nghiệm lựa chọn.
(3)
Không
thể biết trước được các lối trả lời khác nhau nhưng vẫn đúng.
Ví
dụ:
CHỦ ĐỀ VỀ CHÚA GIÊSU
- Đức Giêsu dạy: "Những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy ……………… "
- Theo Đức Giêsu, cây tốt thì sinh …………, cây xấu thì …………………
- Đức Giêsu bảo với một người xin theo Ngài làm môn đệ: "Anh hãy đi theo tôi, cứ để ……… chôn ……… của họ."
- Đức Giêsu nói: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ………… Vậy anh em hãy xin ……………… sai thợ đi …………………………"
- Giuđa Iscariot nói với …… : "Tôi nộp … cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu?"
Đáp án:
1.
… làm cho người ta như vậy (Mt 7,12)
2.
… trái tốt. … thì sinh trái
xấu (Mt 7,17)
3.
… kẻ chết chôn kẻ chết… (Mt 8,22).
4.
… lại ít… chủ mùa gặt… gặt lúa
về (Mt 9,37)
5.
… các thượng tế: “… ông ấy…”
(Mt 26,14-15)
Ví
dụ:
NHỮNG TÊN GỌI KHÁC CỦA ĐỨC GIÊSU
Bạn
cho biết nghĩa của những tên gọi khác của Đức Giêsu:
STT
|
TRÍCH
DẪN KT
|
TÊN GỌI
|
NGHĨA CỦA TÊN
GỌI
|
1
|
Mt
1, 21
|
Giêsu
|
Thiên
Chúa cứu độ.
|
2
|
Mt
1,23
|
Emmanuel
|
|
3
|
Mt
1, 16
|
Kitô
|
|
4
|
Ga
1, 29
|
Chiên
Thiên Chúa
|
|
5
|
Lc
24, 34
|
Đấng
Phục Sinh
|
|
6
|
Lc
5, 24
|
Con
Người
|
|
Đáp
án:
1.
Thiên Chúa ở cùng chúng ta 2. Đấng
Được Xức Dầu.
3.
Đấng gánh tội trần gian. 4.
Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết.
5.
Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa.
IV. MỘT SỐ
NGUYÊN TẮC SOẠN THẢO TRẮC NGHIỆM CHỌN LỰA
(1) Lựa chọn những ý
tưởng quan trọng nền tảng của môn học và viết ra các ý tưởng ấy một cách rõ
ràng để làm căn bản cho việc soạn thảo các câu trắc nghiệm.
(2) Ghi trên giấy
các chủ đề, các ý tưởng quan trọng mà ta muốn khảo sát, rồi căn cứ vào những ý
tưởng ấy ta mới soạn ra các câu trắc nghiệm.
(3) Chọn các ý tưởng
và viết các câu trắc nghiệm sao cho có thể tối đa hoá khả năng phân biệt học
sinh giỏi và học sinh kém.
(4) Để hiệu quả
trong sự đo lường chính xác kết quả học tập, khi soạn thảo lưu ý đến vấn đề tối
đa hoá khả năng phân biệt qua việc lựa chọn chủ đề, ý tưởng khảo sát và cả
trong việc lựa chọn và viết các câu làm “mồi nhử”.
(5) Vì thế người
soạn thảo cần chú ý đến cách đặt câu hỏi, viết câu trả lời được dự định cho là
đúng, lựa chọn và viết các “mồi nhử” làm sao để có thể tăng lên sự khác biệt có
thể bộc lộ ra giữa học sinh giỏi và học sinh kém qua cung cách chọn lựa câu trả
lời.
(6) Nên soạn thảo
các câu trắc nghiệm trên giấy nháp và xếp đặt chúng sao cho có thể sữa chữa và
ghép chúng lại với nhau thành một bài trắc nghiệm hoàn chỉnh.
(7) Khi bắt đầu viết
câu trắc nghiệm, ta phải khởi sự viết phần “gốc” của câu dưới dạng một câu hỏi
hoặc một câu bỏ lững.
(8) Rồi soạn tiếp
theo câu trả lời được dự định là đúng.
(9) Sau đó xếp đặt
các câu đúng này theo lối ngẫu nhiên. Phương pháp thường dùng để xếp đặt là
soạn sẳn một trình tự từ 1 – 4 (nếu có 4 lựa chọn), rồi dùng các con số này để
đặt vị trí cho các câu trả lời đúng. Một lối khác là xếp đặt theo thứ tự từ câu
dễ đến câu khó, nhưng phải công nhận rằng đây là một điều khó thực hiện và
không cần thiết.
Lưu
Ý
Không nên sử dụng nhiều hình thức
trắc nghiệm khác nhau trong một bài trắc nghiệm.
Các câu trắc nghiệm ở lớp học
không nên có độ khó quá khác biệt nhau.
(1) Phần “gốc” của
trắc nghiệm cần phải đặt vấn đề cách ngắn gọn và sáng sủa:
Phần gốc có thể được trình bày dưới dạng
một câu hỏi hay câu bỏ lững.
Phần gốc phải hàm chứa vấn đề mà ta muốn
hỏi.
(2) Phần lựa chọn
gồm có một câu trả lời đúng và nhiều câu trả lời sai làm “mồi nhử”.
Khi viết các câu lựa chọn cần
tuân thủ một số nguyên tắc:
(1)
Các
câu lựa chọn phải hợp lý và hấp dẫn.
(2)
Nếu
phần gốc của câu trắc nghiệm là câu bỏ lững thì các câu lựa chọn phải nối tiếp
với câu bỏ lững thành những câu đúng văn phạm.
(3)
Nên
thận trọng khi dùng câu “tất cả đều sai” hay “tất cả đều đúng” làm câu lựa
chọn.
V
TỔ CHỨC THI VÀ CHẤM THI TRẮC NGHIỆM
1.
Trình Bày Trắc Nghiệm
Một bài thi trắc nghiệm có hai
cách làm thông dụng:
- Sử dụng máy chiếu (projector):
Ta viết câu hỏi bài trắc nghiệm trên máy rồi chiếu lên màn hình từng phần hay
từng câu trong khoảng thời gian ấn định đủ cho học sinh bình thường có thể làm.
Cách này giúp giáo viên kiểm soát được thời gian ấn định, buộc học sinh phải
trả lời nhanh tránh được phần nào gian lận, nhưng gây áp lực thúc ép học sinh.
- Cách thông dụng hơn cả là in
bài thi trắc nghiệm ra thành nhiều văn bản tương ứng với số người dự thi. Cách
làm này cần lưu ýkiểm soát cẩn thận các bản in để tránh những lỗi in sai, không
rõ ràng hay thiếu sót.
2.
Chuẩn Bị Học Sinh
Cần nhắc
nhở học sinh những điều sau đây trước khi làm bài trắc nghiệm:
(1) Lắng nghe và đọc
kỹ những chỉ dẫn làm bài trắc nghiệm.
(2) Cho học sinh
biết cách tính điểm.
(3) Cách đánh dấu
vào các câu lựa chọn.
(4) Nếu trả lời trên
một bảng trả lời thì phải kiểm soát kỹ số thự tự mỗi câu.
(5) Khuyến khích học
sinh trả lời tất cả các câu hỏi.
(6) Nên dành thời
gian (nếu có) để kiểm tra lại các câu trả lời và sửa chữa những lỗi vô ý.
(7) Khuyên học sinh
nên bình tĩnh, không nên lo ngại quá đáng.
3.
Công Việc Giám Thị
Giám thị chỉ dẫn và căn dặn thí
sinh những điều cần thiết trước khi ra lệnh thí sinh bắt đầu làm bài.
Tuyệt đối không giúp đỡ thí sinh
trả lời các câu hỏi hay đề cập đến nội dung các câu hỏi.
Khoảng 15 phút giám thị nên cho
thí sinh biết thời giờ còn lại bằng cách ghi lên bảng.
4.
Cách Chấm Bài
4.1/ Thông thường nhất là chấm
bài bằng cách sử dụng bảng đục lỗ.
Bảng
có thể làm bằng bìa cứng đục lỗ những câu trả lời đúng.
Đặt
bảng áp lên bài làm, những dấu gạch ở câu trả lời đúng hiện ra qua lỗ.
Đếm
số câu trả lời đúng và ghi điểm lên bài thi.
4.2/ Nếu có máy chấm bài thi thì
công việc sẽ dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Hoặc
có thể sử dụng phần mềm thống kê như SPSSPS hay SYSTAT, nhập dữ liệu trên bảng
trả lời của thí sinh, tính tổng số điểm rồi in ra kết quả.