1. Theo Hy ngữ, Cathèkhèo (Anh ngữ:
Catechesis) dịch là giáo lý
hay huấn giáo, nghĩa là vang dội lại (echo), là loan truyền, giảng dạy.
-
Catechesis (giáo lý) bao hàm Kerygme
(loan báo) và Praxis (phản ảnh, làm chứng).
-
Giáo
lý là vang dội lại Tin Mừng mang tính chất vừa mục vụ vừa hệ thống. Nó có mục
đích dẫn đưa người tân tòng (trẻ thơ hay người lớn) hiểu biết các mầu nhiệm
trong đạo, mối quan hệ giữa chúng, dẫn đưa họ đi vào mối tương quan với Thiên
Chúa.
-
Giáo
lý trước hết phải là một lời kêu gọi hoán cải nội tâm [2].
2. Ta có thể
hiểu giáo lý là trình bày Lời Thiên Chúa một cách đơn giản, cụ thể, sống động,
để giúp tín hữu hiểu và sống đức tin.
II. Vị Trí Của
Giáo Lý
-
Dạy giáo lý là nói Tin Mừng cho người chưa nhận biết Chúa
Kitô.
-
Dạy
giáo lý là giúp tín hữu đào sâu chân lý đức tin.
-
Diễn
giảng mầu nhiệm Kitô giáo trong khuôn khổ phụng vụ và nhằm chủ đích phụng vụ.
III. Nhiệm Vụ
Của Giáo Lý [3]
Huấn
giáo thực hiện những nhiệm vụ mà Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ khi sai các
ông đi giảng dạy, các nhiêm vụ tuy khác nhau nhưng liên quan với nhau. Đó là
các nhiệm vụ:
1. Truyền đạt,
phát huy, khuyến khích việc hiểu biết đức tin như CGS giúp
cho người thời bấy giờ hiểu biết mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (Mt 13,11)
2. Giáo dục
phụng vụ:
CGS trao ban bí tích để ban ân sủng nuôi dưỡng đời sống con người (Lc 22, 19)
3. Huấn luyện
đời sống luân lý:
CGS đã dạy một lối sống theo các Mối Phúc, theo Mười điều răn, và theo gương
Người (Mt 11, 29)
4. Dạy cầu
nguyện
như CGS đã dạy cho các môn đệ biết cầu nguyện (Lc 11,2).
5. Giáo dục đời
sống cộng đồng:
sống tinh thần hiệp thông (Ga 17, 21) và
bác ái (Ga 14, 34).
6. Khai dẫn truyền giáo: Truyền giáo là
mệnh lệnh của CGS trao cho Giáo Hội (Mt 28, 19 - 20), là bản chất của Giáo Hội [4].
IV. Nguồn Mạch
Của Giáo Lý[5]
Nguồn
mạch của giáo lý là:
Thánh Kinh: Là Lời Thiên
Chúa được ghi chép lại
Thánh Truyền: Truyền khẩu và
giáo huấn các giáo phụ[6].
Phụng vụ: Qui luật cầu
nguyện là qui luật đức tin (Lex orandi, lex credendi).
Đời sống của
Giáo Hội:
Gồm các giáo huấn của Huấn quyền và lòng tin của dân Chúa.
V. Mối
Quan Hệ Giáo Lý Với Thần Học, Thánh Kinh Và Phụng Vụ
1. Giáo Lý Và
Thần Học [7]
Xét
về nguồn mạch và nội dung thì giáo lý và thần học giống nhau: bắt nguồn từ Lời
Thiên Chúa và trình bày Lời Thiên Chúa.
Xét
về chuyên môn và phương pháp thì giáo lý và thần học khác nhau.
Dạy
thần học là một dạng của sự huấn giáo Kitô, nhưng nó khác giáo lý ở chỗ là nó
nhằm đến trước tiên những người trưởng thành trong Giáo Hội. Nó mang tính khoa
học, mời gọi ngay đến lý trí phê phán hơn là một sự hoá cải nội tâm. Còn giáo
lý nhằm đến người tân tòng, nó vừa mang tính chất mục vụ vừa hệ thống, giáo lý
trước hết là kêu gọi sự hoán cải.
2. Giáo Lý Với
Thánh Kinh [8]
Thánh Kinh là
Lời Thiên Chúa và là nền tảng của giáo lý. Nội dung Thánh Kinh là lịch sử cứu
độ, trong đó Chúa Kitô là mầu nhiệm trung tâm. Nên giáo lý phải trình bày ý
định và chương trình cứu độ của Thiên Chúa quy về Chúa Kitô là trung tâm của
lịch sử cứu độ (quy Kitô). Giáo lý càng gần Thánh Kinh bao nhiêu thì càng phong
phú bấy nhiêu.
Thánh Kinh là
Lời Thiên Chúa nói với con người bằng ngôn ngữ con người, theo cách suy nghĩ và
diễn đạt của con người. Do vậy dạy giáo lý không chỉ thấm nhuần Thánh Kinh về
nội dung mà còn về cả ngôn ngữ và cách diễn đạt
3.
Giáo Lý Với Phụng Vụ [9]
Lời Thiên Chúa
được Giáo Hội đón nhận và diễn tả trong chính đời sống của mình, nhất là trong
Phụng vụ. Qui luật cầu nguyện là qui luật đức tin, nghĩa là những gì Giáo Hội
sống trong lời cầu nguyện thì điều đó thuộc về lãnh vực đức tin.
Các bản văn và
kinh nguyện trong Phụng vụ rất phong phú về mặt giáo thuyết, giáo lý có thể
dùng những lời trong đó làm câu học thuộc lòng cùng với những lời trích từ
Thánh Kinh.
Giáo lý chuẩn bị
và hướng về Phụng vụ, thì Phụng vụ bổ túc cho giáo lý. Phụng vụ làm cho giáo lý
trở nên cụ thể, sống động và làm cho người tín hữu cảm nghiệm được những gì
được nghe giảng.
[1] Theo Jonh A.
Hardon, Từ Điển Phổ Thông Công Giáo: Giáo lý là hệ thống giáo
thuyết của Giáo Hội nhằm trình bày chân lý đức tin mà Giáo Hội tin là chính
Thiên Chúa mặc khải cho Giáo Hội.
[3] Thánh bộ Giáo sĩ,
(1997) Hướng dẫn tổng quát về Huấn giáo. Bản dịch 1997, số 85 – 86.
[4] Vat 2, Sắc lệnh
về Truyền Giáo (TG), số 2.
[5] Lm. Nguyễn Văn
Tuyên, Sư phạm giáo ly, Tủ sách đại kết, 1995, trang 12 - 13
[6] Giáo phụ
là các văn sĩ thánh của những thế kỷ đầu tiên được Giáo Hội công nhận như chứng
nhân đặc biệt của đức tin.
Bốn tiêu chuẩn để
công nhận là giáo phụ: (1) thuộc về thế hệ xưa, (2) theo giáo lý chính thống
của Giáo Hội, (3) sống thánh thiện, (4) được Giáo Hội chấp nhận. Thường chia ra
giáo phụ La tinh (Tây Phương) và giáo phụ Hy lạp (Đông Phương). Người ta đồng ý
với nhau rằng giáo phụ cuối cùng của Tây phương là thánh Isidoro thành Sevilla
(560 – 636) và giáo phụ cuối cùng của Đông phương là thánh Gioan Damasceno (675
– 749) (x. Jonh A. Hardon, SJ, Từ điển phổ thông công giáo).
[7] Lm. Nguyễn Văn
Tuyên, sđd, trang 14 - 17
[8] Lm. Nguyễn Văn
Tuyên, sđd, trang 30 - 33
[9] Lm. Nguyễn Văn
Tuyên, sđd, trang 33 - 35