• Trang chủ

HUYNH TRƯỞNG THIẾU NHI THÁNH THỂ VỚI NHIỆM VỤ DẠY GIÁO LÝ



A. NHẬN ĐỊNH VỀ PHONG TRÀO
1. Mục đích của Phong Trào nhằm giới thiệu Chúa Giêsu cho các em
Phong Trào TNTT là một đoàn thể công giáo tiến hành, dành riêng cho giới thiếu nhi. Trọng tâm của việc giáo dục các em được quy về hai lãnh vực: tự nhiên và siêu nhiên. Trong đó, các em được giáo dục toàn diện về đức dục, trí dục, thể dục, để trở thành một công dân tốt ngoài xã hội và một Kitô chân chính, huấn luyện các em nên thánh noi gương Anh Cả Giêsu. Bởi thế, phương pháp giáo dục phải thấm nhuần tinh thần tôn giáo và Thánh Kinh hoá mọi sinh hoạt học tập của các em. 
Để thực hiện, Phong Trào có Chương Trình Thăng Tiến, trong đó bao gồm: Giáo lý, Thánh Kinh, Nhân Bản, Đời sống tôn giáo, Phong Trào, trò chơi, bài hát, băng reo, Kỹ năng chuyên môn… với ‘phương châm học mà vui, vui mà học’. Vì thế Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể không chỉ nhằm huấn luyện thiếu nhi thành những linh hoạt viên (sinh hoạt, nhảy nhót), mà trọng tâm của phong trào dẫn các em đến với Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc giảng dạy giáo lý Thánh Kinh và áp dụng phương pháp tự nhiên và siêu nhiên để ngày sống của các em gắn bó với Chúa.
2- Nền tảng của Phong Trào là Thánh Kinh và Giáo Huấn của Giáo Hội.
Phong Trào lấy Lời Chúa làm NỀN TẢNG, là chất liệu đặc biệt để giáo dục, thánh hóa và hướng dẫn giới trẻ, làm chứng nhân Tin Mừng trong môi trường sống của mình. Mọi sinh hoạt phải lấy Thánh Kinh làm gốc, lấy Giáo huấn của Giáo hội Công giáo làm nền mới đi đúng hướng của Phong Trào. 
3- Lý tưởng của Phong Trào là Chúa Giêsu
Phong Trào TNTT lấy Chúa Giêsu làm LÝ TƯỞNG, luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể trong việc cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa, tham dự Thánh lễ, rước lễ… để củng cố đức tin, hoàn thiện đức mến và sẵn sàng hy sinh làm việc tông đồ cho các bạn trẻ. Nói cách khác, Phong Trào nhận Chúa Giêsu Thánh Thể là trung tâm, là nguồn sống thiêng liêng và là lý tưởng sống của đời mình.
B- VỀ GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
1- Nhiệm vụ của Đoàn Thể  trẻ là học Giáo lý
Đức Gioan-Phaolô II, trong Tông Huấn CATECHESI TRADENDAE Số 47 đã đề cập đến các đoàn thể trẻ phải có trách nhiệm dạy giáo lý cho đoàn viên của mình như sau: “Cha cũng xin nhắc đến các đoàn thể trẻ dưới nhiều danh hiệu và hình thức khác nhau, nhưng luôn có một mục đích là làm cho người ta biết về Chúa Giêsu Kitô bằng cách sống theo Tin Mừng.... Các nhóm này là một nguồn mạch của niềm hy vọng lớn lao cho Hội Thánh tương lai. Nhân danh Đức Kitô, cha thúc đẩy các người trẻ thuộc các nhóm này, các huynh trưởng của họ, và các linh mục phải dành phần lớn việc mục vụ cho họ: không cần biết phải trả giá nào, đừng để những nhóm này, là cơ hội đặc biệt để gặp gỡ những người khác, được chúc phúc bằng tình bằng hữu và đoàn kết phong phú giữa những người trẻ, bằng niềm vui và sự hăng say, bằng suy niệm về những biến cố và dữ kiện, đừng để các nhóm này thiếu sự học hỏi nghiêm chỉnh về những giáo thuyết Kitô giáo. Nếu không, các nhóm này sẽ bị lâm nguy”
2- Nhiệm vụ dạy Giáo lý của Huynh Trưởng
Ngài còn nói tiếp ở số 70 như sau: “Phải khuyến khích các đoàn thể, phong trào, và các nhóm giáo dân, dù mục đích là thực hành các việc đạo đức, làm việc tông đồ trực tiếp, làm việc từ thiện hay cứu trợ, hãy chứng tỏ sự hiện diện của Đức Kitô trong những vấn đề trần thế. Tất cả các đoàn thể này sẽ đạt được mục đích của mình, và phục vụ Hội Thánh cách tốt hơn, nếu họ biết thật sự dành cho việc huấn luyện tôn giáo cho các thành viên một chỗ đứng quan trọng trong việc tổ chức nội bộ và các phương pháp hành động của họ. 
Trọng tâm của Phong Trào TNTT là việc dạy Giáo lý. Phong Trào hấp dẫn các em đến với giáo lý bằng khung cảnh Thánh Kinh, bằng ngày Thánh Thể, bằng sinh hoạt hội đoàn, đây là sân chơi bổ ích, là môi sinh tốt cho các em.
I. KHÁI NIỆM  VỀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ 
1- Bản Chất và Ý Nghĩa của việc dạy Giáo lý
Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý, nên Ngài đã sai Ngôi Hai xuống trần làm Người, và được Thánh Thần tấn phong làm Tiên Tri, Tư Tế, Vương Đế. Đấng Cứu Thế rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho mọi hạng người, làm các phép lạ để khơi gợi và củng cố lòng tin, hiến thân làm lễ đền tội cho nhân loại, thiết lập Hội Thánh để công trình cứu độ của Ngài được tiếp tục. Vì thế, Hội Thánh nhận sứ mệnh :
+ Rao giảng đức tin (Lời Chúa)
+ Cử hành đức tin (ban phát các Bí tích)
+ Chứng tá đức tin (làm chứng về Chúa Kitô)
Huấn giáo hay dạy giáo lý nằm trong sứ mệnh rao giảng đức tin.
2- Huấn Giáo gồm hai việc :
+ Truyền thông đức tin
+ Giáo hoá đời sống giúp con người trở nên Kitô hữu, làm con Thiên Chúa và là một Kitô khác (Alter Christus).
3- Nguồn và Chất Liệu của Giáo Lý
• Kinh Thánh: Cựu Ước và Tân Ước.
• Phụng Vụ: là việc cử hành mầu nhiệm Đức Kitô, nuôi dưỡng và phát triển đức tin.
• Đời sống Hội Thánh: các biến cố, giáo huấn của  Hội Thánh, Gương các Thánh….
• Qui luật Đức Tin: Các điều phải tin, phải giữ.
III- HUYNH TRƯỞNG TNTT LÀ AI ?
1- Huynh Trưởng là môn đệ của Chúa Kitô, là người em của Anh Cả Giêsu
Huynh Trưởng là người môn đệ nhiệt thành của Chúa Kitô, đang tiếp tục sứ mạng hướng dẫn tuổi trẻ tiến đến sự hoàn thiện theo tinh thần Tin Mừng. Huynh Trưởng còn là người em của Anh Cả Giêsu, dẫn dắt và cùng các em thiếu nhi đến với Chúa Giêsu Thánh Thể. 
2- Huynh Trưởng là người lãnh đạo 
Huynh Trưởng tham dự vào công tác lãnh đạo, quản trị và giáo dục tuổi trẻ. Khác với thưở ban đầu, khi mới thành hình dưới danh xưng “Hội Nghĩa Binh”, thì các ông quản, bà quản coi sóc, dạy dỗ. Nhưng sau Công đồng Vaticanô II, khi được đổi tên là Thiếu Nhi Thánh Thể thì trách vụ ấy được giao về cho các Huynh Trưởng: là người hiểu biết về Phong Trào, là người nắm bắt tâm lý các em, gần gũi các em. Điều này đòi hỏi người Huynh Trưởng phải nỗ lực đào sâu về Thánh Kinh, Giáo lý, Giáo Huấn của Giáo Hội, các kiến thức về sinh hoạt, quản trị và điều hành… Phong Trào đặt niềm tin vào các Trưởng và muốn các anh chị dìu dắt đàn em của mình bước theo Anh Cả Giêsu trên con đường thăng tiến và hoàn thiện.
3- Việc Huấn Luyện và Đào tạo Huynh Trưởng:
Để chuẩn bị cho việc rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu đã kêu gọi, tuyển chọn và huấn luyện các tông đồ để các ông thấm nhuần tinh thần và đường lối của Ngài. Đức Giêsu còn xin Chúa Cha ban Thánh Thần cho các ông, để Ngài giúp các ông hiểu rõ những việc Ngài làm, những lời Ngài dạy, để các ông can đảm ra đi tiếp nối sứ mệnh lôi kéo nhiều người sống theo tinh thần Tin Mừng.
Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể cũng theo đường lối huấn luyện của Thầy, mời gọi các bạn trẻ nam nữ nhiệt thành trong cộng đoàn Dân Chúa có lòng yêu trẻ, trở thành các giáo lý viên, đồng thời giới thiệu và huấn luyện họ về tinh thần và đường lối của Phong Trào, để họ trở nên những Huynh Trưởng vừa có khả năng hướng dẫn giáo lý, vừa có kỹ năng giúp các em áp dụng giáo lý vào cuộc sống. Người Huynh Trưởng phải trưởng thành trong đức tin, quảng đại trong việc phục vụ Tin Mừng, luôn hiệp nhất với Giáo Hội trong khi lãnh đạo và giáo dục các em.
IV- DẠY GIÁO LÝ LÀ GÌ ?
1- Trọng tâm của việc dạy Giáo lý
Dạy giáo lý là giúp cho người học hiểu biết và trưởng thành hơn trong đức tin vào Chúa Giêsu Kitô; gắn bó và yêu mến Người sâu xa hơn; đồng thời vững lòng dấn thân để theo Người. Mục đích của việc dạy giáo lý là giúp kết hiệp với Đức Kitô. Giáo lý giúp học sinh đi vào mầu nhiệm Đức Kitô, gặp gỡ Người nhờ đó tìm ra ý nghĩa cuộc sống của mình. Đối tượng đức tin ấy chỉ có thể giảng dạy một phần nhỏ nào thôi, nhưng còn cần sống, cảm nhận và thể hiện nó bằng nhiều cách.
Nói cách khác, trọng tâm của việc huấn giáo hay dạy giáo lý là Chúa Kitô, những gì còn lại cũng đều qui chiếu về Người. Mục tiêu của việc huấn giáo là làm cho người khác biết Đức Kitô, tin Người, yêu Người và nên một với Người, để nên một với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Phong Trào TNTT hỗ trợ những phương tiện làm sinh động hóa và cụ thể hóa bài giáo lý. Đức Kitô là trung tâm điểm của đời sống cá nhân từng thành viên của Phong Trào. 
2- Giáo lý là nội dung quan trọng của Chương Trình Thăng Tiến
Chương Trình Thăng Tiến là chương trình huấn luyện cho các Ngành, các Cấp trong Phong Trào cách tiệm tiến và theo tâm lý từng lứa tuổi nhằm từng bước khai tâm cho các em thiếu nhi đi vào đời sống Kitô hữu. Nội dung quan trọng không thể thiếu là: Giáo lý, Thánh Kinh và Đời sống tôn giáo. Vì mục đích của Phong Trào TNTT là đoàn ngũ hoá và giáo dục các em nên người và nên thánh, dựa trên nền tảng là Thánh Kinh và Giáo Huấn của Giáo Hội. Do đó, để lãnh đạo và hướng dẫn các em, người Huynh Trưởng phải tự rèn luyện và không ngừng học hỏi chuyên sâu về Thánh Kinh, Giáo lý, Phụng Vụ; đồng thời cũng phải nắm bắt và tìm hiểu thêm về các Thông Điệp, Tông Thư, Tông Huấn, Sắc Lệnh… của Giáo Hội. 
3- Huynh Trưởng TNTT phải có kinh nghiệm gặp gỡ Chúa trong đời sống thường ngày.
Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc đã nói với các anh chị Giáo lý viên Giáo phận Mỹ Tho như sau: “Giáo lý viên, là người thường xuyên trình bày Chúa Kitô cho các em nhỏ… Chúng ta không thể nói về Chúa, nếu chúng ta không có chút kinh nghiệm tối thiểu về Chúa, nếu chúng ta không gặp gỡ Chúa, cảm nghiệm được tình yêu của Chúa, kết hợp với Chúa, nên một với Chúa. Dĩ nhiên kinh nghiệm ấy không phải là kinh nghiệm theo kiểu thế gian, mà là kinh nghiệm đức tin, kinh nghiệm thiêng liêng… Tất cả những điều đó, người giáo lý viên có thể thực hiện trong thánh lễ và nhờ thánh lễ. Chúa Thánh Thần và Giáo hội giúp người giáo lý viên đón Chúa, gặp gỡ Chúa, cảm nghiệm được tình yêu của Chúa, kết hợp với Chúa, nên một với Chúa”. (Bài “Giáo lý viên sống Mầu nhiệm Thánh Thể”)
Người Huynh Trưởng TNTT cũng thường xuyên giới thiệu Chúa Kitô cho các em, hướng dẫn các em kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc dâng ngày, cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, Rước Lễ, Viếng Thánh Thể, sống Ngày Thánh Thể… vì nguồn sống của PT/TNTT và của người Huynh Trưởng chính là Bí Tích Thánh Thể, do đó người Huynh Trưởng phải có kinh nghiệm gặp gỡ Chúa trong đời sống thường ngày. “Không ai có thể cho cái mình không có” (Nemo dat quod non habet)
4- Chúa Giêsu trong đời sống người Huynh Trưởng
Trọng tâm đời sống người Huynh Trưởng chính là Chúa Giêsu Thánh Thể. Cuộc sống của Huynh Trưởng phải phản ảnh chính cuộc sống của Chúa Giêsu, Anh Cả là mẫu gương, là lý tưởng của Phong Trào. Chúa Giêsu không chỉ là Thầy, nhưng còn là Bạn của các môn đệ Người. Cung cách dạy dỗ của Đức Kitô nói lên đặc tính chia sẻ. Những gì Người lãnh nhận từ Chúa Cha, Người đã chuyển lại cho các môn đệ. Không phải là chia sẻ một kiến thức, nhưng là chia sẻ cả cuộc sống, cả con người yêu thương ta. Người không chỉ là Lời của Thiên Chúa mà thôi, nhưng còn là Lời hóa nên người phàm. Người dạy những gì Người đã thực sự sống. Đời sống tâm linh của Đức Kitô không chỉ thể hiện qua những lời giảng dạy, nhưng nhất là qua lối sống của Người. Đi bên cạnh Chúa, các môn đệ có thể chưa hiểu ý nghĩa những điều Người giảng dạy nhưng các ông có thể trực giác và cảm nhận ý nghĩa những việc Người làm. 
Ví dụ: Trước khi dạy cầu nguyện, Đức Kitô đã sống đời cầu nguyện. Trước khi dạy lòng thương xót, Đức Kitô đã biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa qua những gì Người làm cho dân “đang lầm than vất vưởng như đàn chiên không người chăn dắt”…
Như Đức Kitô đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha để có sự sống phong phú mà chia sẻ cho nhân loại, người Huynh Trưởng cũng phải kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu để được sống dồi dào và chia sẻ sự sống ấy cho các em thiếu nhi. 
V- ĐỜI SỐNG TÂM LINH CỦA HT-TNTT
1- Huynh Trưởng TNTT phải có đời sống tâm linh
Dạy Giáo lý, đòi hỏi phải có một đời sống tâm linh phong phú. Đời sống này đã được tập luyện ngay từ khi người Huynh Trưởng bước chân vào Phong Trào: CẦU NGUYỆN, RƯỚC LỄ, HY SINH, LÀM TÔNG ĐỒ được thực hành thường xuyên trong mỗi ngày sống, đồng thời cũng là 4 luật đầu trong 10 điều Luật của Phong Trào. Ngoài ra người Huynh Trưởng còn Sống Ngày Thánh Thể, Giờ Thánh Thể, học hỏi Lời Chúa để được luôn kết hiệp với Chúa.
Huynh Trưởng là người tình nguyện dấn thân phục vụ Chúa Giêsu Thánh Thể và các em trong sứ mệnh đặc biệt của Hội Thánh: rao giảng Tin Mừng. Khởi đầu của rao giảng Tin Mừng là giúp người ta đến với Đức Kitô, giáo dục họ trong đức tin và tháp nhập họ vào đời sống cộng đồng Kitô. Tiếp đến, nhằm giúp những người đã lãnh nhận bí tích Rửa tội hoặc cả ba bí tích khai tâm được trưởng thành trong đức tin của mình. Do đó, nếu huấn giáo là sứ vụ của Giáo Hội giúp người ta trở về với Đức Kitô và tiếp tục lớn lên trong đức tin, thì học sinh giáo lý chính là đối tượng của việc rao giảng Tin Mừng, vì tất cả các em cần được giúp đỡ để lớn lên trong đức tin.
Tham dự sứ vụ giáo huấn đòi hỏi người Huynh trưởng phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, như chủng sinh phải được huấn luyện đầy đủ để thi hành chức vụ linh mục. Việc đào tạo đời sống tâm linh không chỉ nằm ở bình diện trí óc hiểu biết, nhưng đi vào chiều sâu của trái tim và ý chí con người. Chẳng ai có thể cấp chứng chỉ về đời sống nội tâm cho một Huynh trưởng hay giáo lý viên sau khi họ tham dự một khóa sa mạc, tĩnh tâm cả! 
2- Huynh Trưởng TNTT được mời gọi nên thánh
a- Đối với Giáo lý viên :
Cũng như mọi tín hữu, người giáo lý viên được mời gọi nên thánh. Tuy nhiên, vì tác vụ và sứ mệnh của họ, lời mời gọi nên thánh mang tính cách cấp bách đặc biệt. Đời sống thiêng liêng của giáo lý viên phải được thể hiện qua những điểm sau đây: 
• Có lòng yêu mến Chúa và yêu mến Giáo Hội, thể hiện qua việc gắn bó với giáo xứ của mình.
• Có đời sống thống nhất và trung tín được biểu lộ qua việc hân hoan sống tinh thần đức tin, cậy, mến. 
• Có đời sống cầu nguyện và hăng hái dấn thân cho sứ mệnh rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội
• Lòng nhiệt thành truyền giáo. Tích cực tham gia cộng đoàn giáo xứ địa phương, nhất là tham dự Thánh lễ Chúa Nhật 
• Có lòng tôn thờ Thánh Thể, lòng sùng kính Mẹ Maria và các thánh. 
Đời sống thiêng liêng rất cần thiết vì nó cung cấp cho giáo lý viên sức sống, lòng nhiệt thành và sự tích cực, tức là cái tâm, cái hồn của người tông đồ. Đời sống thiêng liêng đem lại cho giáo lý viên điểm tựa chắc chắn là: lòng yêu mến, cầu nguyện, sống các nhân đức, tinh thần truyền giáo, theo gương Mẹ Maria và sống nhờ lương thực Thánh Thể để họ chu toàn sứ mệnh.
b- Đối với Huynh Trưởng TNTT:
Mục đích của Phong Trào là giúp đoàn viên nên người và nên thánh. Thể hiện qua những tôn chỉ:
• Sống Lời Chúa và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể:
Tôn chỉ của Phong Trào TNTT là sống Lời Chúa và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể trong sự cầu nguyện, rước lễ, hy sinh, làm việc tông đồ, nhất là làm tông đồ cho giới trẻ bằng mọi cách như sắc lệnh Tông đồ Giáo dân đã nói: “Giới trẻ phải làm tông đồ trước tiên và trực tiếp cho giới trẻ” (Sắc lệnh TĐGD, số 12) (Nội Quy, điều 5)
Như vậy trong sinh hoạt, Phong Trào giúp các em thấm nhuần hai tư tưởng này là: GIỮ và THỰC HÀNH  Lời Chúa dạy; đồng thời luôn gắn bó và yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc siêng năng tham dự Thánh lễ, Rước lễ và Chầu Mình Thánh Chúa…
• Yêu mến và tôn kính Đức Mẹ
Thiếu nhi với tình con thảo yêu mến và tôn sùng Đức Maria, Mẹ Chúa Cứu Thế, theo gương Mẹ mà đón nhận Chúa và đem Chúa vào đời như Mẹ đã thực hiện cách tuyệt hảo. (Nội Quy, điều 6)
Điều luật sống thứ 4: Thiếu nhi nhờ Mẹ cố gắng, quyết làm gương sáng xứng danh tông đồ. Vì thế Thiếu Nhi một lòng yêu mến và tôn sùng Đức Mẹ.
• Tôn kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Lịch sử Giáo Hội Việt Nam trong lúc bị thử thách, bắt bớ, cấm đoán đã được viết lại bằng máu của các tiền nhân anh dũng: hy sinh mạng sống mình vì Đức Tin, vì lòng Yêu Mến Chúa, vì mong muốn Danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa được hiển trị… Phong Trào sẽ trình bày và noi gương các vị tiền bối để giáo dục đức tin của các em ngày một trưởng thành hơn.
• Yêu mến, Vâng phục Đức Thánh Cha
Ngay từ ban đầu, Hội Nghĩa Binh đã được coi là đạo quân riêng của Đức Thánh Cha. Tiếp tục truyền thống tốt đẹp đó, Phong Trào luôn coi Đức Thánh Cha là Thủ Lãnh hữu hình của mình; vì thế luôn vâng phục, cầu nguyện và thực thi những điều ngài muốn. (cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng sớm hôm)
• Luôn thăng tiến bản thân.
Huynh Trưởng có trách nhiệm hướng dẫn Đoàn sinh theo đường lối và mục đích của Phong Trào, do đó cần phải thăng tiến mình cả hai phương diện: nên người và nên thánh. Điều này được cụ thể hoá bằng việc giữ và sống 10 điều Luật của phong trào, cũng như lời hứa của người Huynh trưởng với lòng yêu mến. 
Cái nhìn về đời sống thiêng liêng nói trên khiến người Huynh Trưởng phải tự hỏi: Vậy tôi có đời sống thiêng liêng chưa? Nó có ở mức độ tối thiểu để tôi bắt đầu thi hành sứ vụ huấn giáo không? Tôi phải làm gì để tiếp tục vun đắp đời sống thiêng liêng của tôi hầu giúp cho sứ vụ huấn giáo mang lại kết quả tốt đẹp hơn, tức là giúp tôi chia sẻ dồi dào hơn với các em thiếu nhi những gì tôi đã lãnh nhận được từ nơi Chúa? 
VI- NGHỆ THUẬT GIẢNG DẠY 
1- Thiên Chúa Cha :
Thiên Chúa Cha đối xử với con cái Ngài thế nào? Con cái thế nào thì Ngài chấp nhận chúng như thế, và Ngài làm mọi cách để giải thoát chúng khỏi tội lỗi và kéo chúng lại với Ngài. Qua các biến cố, qua lời nói Thiên Chúa Cha bày tỏ lòng yêu thương chung thủy của Người. 
Cách giáo dục hay nghệ thuật giảng dạy của giáo lý viên phải bắt chước cách giáo dục của Thiên Chúa. Giáo lý viên phải giúp các em nhìn thấy bàn tay Thiên Chúa hoạt động trong các biến cố của cuộc đời. Qua môn giáo lý, học viên hiểu giá trị của mối liên hệ thâm sâu của mình với Thiên Chúa. (Liên hệ CHA – CON) 
2- Chúa Giêsu :
Qua giáo huấn, đời sống, cái chết và cuộc Phục sinh của Người. Đức Kitô cho chúng ta thấy và cảm nghiệm tình Ngài yêu thương và muốn Cứu độ chúng ta. 
Chúa Giêsu niềm nở, trân trọng đón tiếp mọi người nhất là người nghèo, người tội lỗi, và cho thấy họ “là những người được Thiên Chúa thương yêu và tìm kiếm”. Người bày tỏ một tình yêu nhạy bén và mãnh liệt để giúp con người chiến thắng tội lỗi.  
Chúa Giêsu cho thấy tình yêu của Thiên Chúa lớn lao thế nào, Người luôn mời gọi và thúc giục ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi niềm hy vọng ấy sẽ đem lại cho họ sự sống. 
Khi dạy, Chúa Giêsu dùng những hình ảnh cụ thể, sinh động, cách nói đối thoại trực tiếp vừa tầm người nghe, đúc kết thành những câu dễ nhớ, nhắc lại dưới nhiều hình thức khác nhau, tiến từng bước theo nhịp độ hiểu biết của người nghe, lấy lời Thánh Kinh để minh chứng lời nói, không những trình bày mà còn cảm hóa... 
Khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ theo Người với hết trí khôn và tâm hồn, Người truyền lại cho các ông nghệ thuật giảng dạy của Người như là phương thức căn bản để chia sẻ trọn vẹn sứ vụ của Người. Đồng thời Người còn cầu nguyện cho họ để họ làm kiên vững đức tin của anh chị em. 
3- Giáo Hội :
Trọn đời sống của Hội Thánh là công cuộc giáo dục Đức Tin. Là Mẹ và là Thầy, Hội Thánh cũng theo nghệ thuật giảng dạy của Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu Kitô dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Trải qua nhiều kỷ nguyên Kitô, chúng ta tìm thấy sự phong phú của khoa sư phạm giáo lý trong Hội Thánh: đời sống của các thánh và của các giáo lý viên; những cách thể hiện đức tin và truyền thông đức tin cho tha nhân, thí dụ như sách giáo lý, các công cuộc từ thiện bác ái,...  
4- Tác động của Chúa Thánh Thần :
Nghệ thuật giảng dạy của Thiên Chúa Cha và của Chúa Giêsu Kitô được tác động của Chúa Thánh Thần nơi tâm hồn học viên giúp họ khám phá ý định của Chúa Cha và mỗi ngày trở nên giống Đức Chúa Con, là Đức  Giêsu Kitô. Cứu cánh của việc dạy giáo lý là sự hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa nhờ trở nên giống Đức Kitô mỗi ngày một hơn. Họ trở nên giống Đức Kitô tùy theo mức độ đáp trả sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. 
Tóm lại, nghệ thuật dạy giáo lý là làm sao cho người thụ huấn ngày càng nên giống Đức Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần là Đấng Trợ Giúp và Hướng Dẫn. Nghệ thuật dạy về đức tin là nghệ thuật giúp người khác gắn bó với Thiên Chúa trong tình yêu và sự thánh thiện của đờisống 
Việc dạy giáo lý tuy được thực thi bởi những con người, dùng những phương tiện loài người, nhưng lại là sự tham gia tích cực vào sứ mệnh cứu độ của Đức Kitô, và hành động cứu độ của Thiên Chúa Cha. Vì thế giáo lý viên phải ý thức là họ trình bày chân lý đức tin, chứ không phải tư tưởng riêng của mình hay một hệ thống tư tưởng nào đó. Nghệ thuật dùng giảng dạy phải cho phép họ đẩy mạnh việc gắn bó học viên hoàn toàn với Thiên Chúa và nội dung sứ điệp của Đức Kitô.
Đức tin phải giúp phát triển con người toàn diện: sự hiểu biết, cầu nguyện, phụng tự, cùng với đời sống nhân đức. Sau cùng, giáo lý viên giúp học viên biết dâng mình cho Thiên Chúa, nhất là trong “ơn gọi mà Chúa mời gọi họ.” Về điểm này, việc dạy giáo lý còn thi hành nguyên tắc cơ bản cho việc tông đồ ơn gọi mà qua đó Hội Thánh giúp người trẻ khám phá ơn gọi của mình và thực hiện nó với cả niềm xác tín của mình. 
Vậy việc dạy giáo lý ứng dụng khoa sư phạm của Thiên Chúa, là đấng đã cúi xuống với con cái của Ngài, dùng ngôn ngữ, hành động và những cách thể hiện mà họ có thể hiểu để biểu lộ tình thương của Ngài. Qua những kinh nghiệm khác nhau trong đời sống, người dạy giáo lý phải tìm phương thế, đồng thời phải kính trọng chân lý của đức tin và hoàn cảnh cụ thể của học viên. Nhờ làm thế, việc dạy giáo lý giúp học viên biến đời sống họ thành một món quà tình yêu chân thành và tinh tuyền cho Thiên Chúa Cha và tha nhân. 
VII- NGUYÊN TẮC CỦA HUẤN GIÁO
Cha Fx. Nguyễn Hùng Oánh, trong cuốn “Sư Phạm Giáo Lý” đã giới thiệu 8 nguyên tắc sau đây:
1. Huấn giáo phải đảm nhiệm sứ mệnh truyền thông Lời Chúa cách trung thành, cho mọi hạng người đã tin.
2. Huấn giáo phải phát xuất từ Phụng vụ và quy hướng vào Phụng vụ.
3. Huấn giáo phải trung thành với quy luật đức tin.
4. Huấn giáo phải có tính khoa học.
5. Huấn giáo phải xây dựng, củng cố và phát triển đức tin cho mọi người.
6. Huấn giáo phải Hội nhập văn hoá.
7. Huấn giáo phải nhắm tới đối tượng thụ nhân cách thích hợp.
8. Huấn giáo đưa thụ nhân tới trưởng thành tâm linh
VIII- PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÝ 
1- Sự Đa Dạng của Các Phương Pháp 
Trong việc giảng dạy đức tin, Hội Thánh không bắt buộc một phương pháp nào duy nhất nhưng có thể ứng dụng nhiều phương pháp khác nhau, miễn là chúng phù hợp với đường lối sư phạm của Thiên Chúa, nghĩa là trung thành với nội dung đức tin và phù hợp với đối tượng lãnh nhận. Qua các kỷ nguyên Kitô, nhiều phương pháp khác nhau đã được dùng tùy theo năng khiếu của cả giáo lý viên lẫn học viên. Dù dùng phương pháp nào thì mục đích của việc dạy giáo lý luôn luôn là: giáo dục con người toàn diện về đức tin. 
2- Sáu Phương Pháp Huấn Giáo
a. Cụ thể
- Là dễ trưởng tượng, dễ hình dung, hiểu được ngay, vì nó đánh động vào giác quan. Người nghe càng nhỏ tuổi, bài giáo lý càng phải cụ thể, vì trẻ nhỏ có nhiều kinh nghiệm cảm tính (khả giác) và suy nghĩ bằng hình ảnh, chứ chưa lĩnh hội được các ý niệm và chưa lý luận cách trừu tượng.
-  Dùng từ ngữ và kiểu nói dễ hiểu. Từ ngữ và kiểu nói đơn giản sẽ cụ thể hóa các ý niệm trừu tượng và đưa các ý niệm đó đến vừa tầm tiếp nhận của trẻ. Thánh Kinh dùng nhiều ngữ ảnh: Chúa là ánh sáng, là thành lũy, là mục tử... Ngài chăn dắt ta trên đồng cỏ xanh, dẫn đưa tới suối nước mát... Cây gậy (để đánh sói dữ) của Ngài làm ta an lòng...
-  Để cụ thể hóa bài giáo lý, ngoài ngữ ảnh vừa nói, có thể dùng thể ảnh: tranh ảnh, hình vẽ, hình chụp... Thể ảnh cụ thể và có thể hiệu năng sư phạm cao hơn ngữ ảnh do khả năng gợi ý và thu hút sức chú ý của nó. Ví dụ: một tấm ảnh phong cảnh thiên nhiên thật đẹp có thể diễn tả về quyền phép của Thiên Chúa cụ thể hơn lời mô tả của giáo lý viên.
Có hai loại thể ảnh :
* Ảnh tải liệu : ảnh ghi lại những sự kiện đã xảy ra ở những nơi có thật... nhưng xa chúng ta trong không gian hoặc thời gian. 
Ví dụ: hình ảnh Đất thánh, Công đồng Vatican II, ... ảnh tài liệu chỉ có giá trị nếu trung thực và đúng sự thật.
* Ảnh gợi ý : ảnh có tính chất sáng tác, tượng trưng dể diễn tả một ý tưởng hay một tâm tình nào đó. Loại ảnh này phải diễn tả những ý tưởng đúng và những tâm tình tôn giáo sâu sắc mới thích hợp với giáo lý. Trong phạm vi giáo lý thì: ảnh “có ý nghĩa” quan trọng hơn là ảnh “đẹp”.
Không nên dùng quá nhiều hình ảnh trong một bài giáo lý, cần tập trung và phố hợp hình ảnh với các bài giảng cho nhịp nhàng, đúng lúc, đúng đề tài.
- Phương pháp tốt nhất để làm cho bài giáo lý trở nên cụ thể là dùng lối kể chuyện 
b.  Quy nạp
- Thần học thường dùng phương pháp diễn dịch. Từ một mệnh đề A gọi là tiên đề rút ra một mệnh đề B gọi là kết luận, rồi B lại được dùng làm tiền đề để rút ra một kết luận C khác và cứ như thế mãi. Tiền đề bao giờ cũng tổng quát hơn kết luận. Nhiều người đem áp dụng lối suy luận này vào giáo lý cho trẻ nhỏ, nhưng không thích hợp, vì nó trừu tượng và khô khan. Giáo lý phải là loan Tin Mừng một cách sống động. Hơn nữa, đối với trẻ em, hướng dẫn nỗ lực suy nghĩ phôi thai của nó theo nhu cầu tâm lý, chứ không phải theo quy luật luận lý.
- Có thể dùng lối diễn dịch trong giáo lý người lớn nhưng đối với thanh thiếu niên phải theo phương pháp quy nạp. Quy nạp là từ một câu chuyện hay từ nhiều sự kiện cụ thể rút ra một kết luận có tính cách tổng quát. Trong khi phương pháp diễn dịch đi từ nguyên tắc tổng quát đến kết luận đặc thù, thì phương pháp quy nạp đi từ sự kiện đặc thù để rút ra một kết luận tổng quát.
- Khi dùng dụ ngôn giảng dạy, Chúa Giêsu đã theo phương pháp quy nạp. Chúa thuật một câu chuyện, rồi từ câu chuyện đó rút ra một bài học.
- Để áp dụng phương pháp quy nạp vào bài giáo lý, có thể phân biệt ba giai đoạn :
* Giới thiệu : đưa ra một sự kiện làm khởi điểm
* Giải thích : từ sự kiện đó rút ra những ý tưởng, những bài học thích hợp
* Áp dụng : đem những ý tưởng, những bài học đó soi sáng đề tài giáo lý mình muốn trình bày.
c. Chủ động
Là tạo điều kiện cho các học viên tích cực tham gia vào việc khám phá và đồng hóa chân lý, chứ không bị nhồi sọ hoặc đón nhận thụ động, giáo lý viên chỉ là người hướng dẫn giúp các học viên vận dụng khả năng suy tư của mình. Chủ động sẽ gây nên thích thú, đây là điều kiện để đạt được kết quả sư phạm tốt.
Có hai cách làm cho lớp giáo lý trở nên sinh động: đối thoại và sinh hoạt (xem bài riêng). Trong bài giáo lý cần đặt hệ thống câu hỏi giúp các em suy nghĩ. Chủ đích không phải là kiểm tra kiến thức của các em như các loại “câu đố” nhưng để hướng dẫn các em tự mình từng bước tiến tới gần chân lý.
Do đó, câu hỏi phải có tính gợi ý và tiệm tiến.
- Gợi ý: có nghĩa là câu hỏi phải vừa tầm các em và lời giải đáp đã mặc nhiên nằm trong câu hỏi. Câu hỏi gợi ý khác với câu đố, câu đố càng khó và bí hiểm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Trái lại trong câu hỏi gợi ý, cách hỏi tự nó đã mở đường cho lời đáp.
- Tiệm tiến: có nghĩa là các câu hỏi phải nối tiếp nhau, liên tục, ăn khớp với nhau cùng quy hướng về vấn đề đang tìm hiểu và càng ngày càng thâu hẹp vấn đề và trở nên chính xác hơn.
Là phương pháp kích biện Socrate đã dùng huấn luyện các môn đệ và được Platon ghi lại trong các “đối thoại”.
Qua câu hỏi gợi ý, giáo lý viên “lái” sự suy nghĩ và câu trả lời của các em vào vấn đề chính. Cần vững tay lái, nếu không thì chính giáo lý viên sẽ lạc đường. Dĩ nhiên, lối đối thoại rất tốt về mặt sư phạm, nhưng khó áp dụng khi lớp quá đông hoặc thời gian có hạn.
d. Cảm nghiệm
Giáo lý không phải chỉ tìm cách trau dồi kiến thức tôn giáo, nhưng nhằm hoán cải con người toàn diện, dẫn đưa vào đời sống mới trong Chúa Giêsu. Do đó, trong khi trình bày chân lý cần đồng thời lay động tâm tình người nghe. Cả tâm hồn lẫn trí tuệ đều cần được vận dụng trong giờ giáo lý.
- Mỗi bài giáo lý có chủ đề nhất định, không được gộp chung nhiều đề tài khác nhau trong cùng một bài, làm như vậy bài giáo lý sẽ không mạch lạc về mặt nhận thức và phân tán sức chú ý của trẻ em. Sau khi đã ấn định chủ đề giáo lý, cần xác định tâm tình tôn giáo thích hợp với chủ đề đó. 
Ví dụ : . Chủ đề     : Chúa Giêsu quyền phép
. Tâm tình   : cảm phục Thiên Chúa.
Giáo lý viên phải trình bày thế nào để vừa làm cho các em hiểu Chúa Giêsu quyền phép, vừa làm cho các em cảm phục Ngài tự đáy lòng. Như vậy mới đạt chủ đích của bài giáo lý.
- Muốn áp dụng nguyên tắc cảm nghiệm cần phải phối hợp bài giáo lý với cầu nguyện. Không kể cầu nguyện mở đầu hay kết thúc giờ giáo lý, cần dành ít phút cầu nguyện trong chính bài giáo lý ngay sau bài giảng. Phút cầu nguyện này là đỉnh cao của bài giáo lý. Tâm tình khơi động trong bài giảng sẽ được sống mãnh liệt và kết thúc thành lời nguyện. Phút cầu nguyện này không cần dài, nhưng phải là một cuộc gặp gỡ thật sự với Thiên Chúa. Như vậy, trong giờ giáo lý chẳng những nói với các em về Thiên Chúa nhưng còn giúp các em sống với Thiên Chúa.
e. Tiệm tiến: 
- Trong chương trình: Mỗi tuổi có những vấn đề riêng, có  mức độ hiểu biết và nhu cầu tâm lý khác nhau, do đó phải có chương trình giáo lý riêng cho mỗi lứa tuổi. Và ngay trong những vấn đề chung cho mọi tuổi cũng có cách trình bày riêng cho từng tuổi. Dùng một sách giáo lý chung cho mọi tuổi vừa trái quy luật tâm lý và sư phạm, vừa không trung tín với chính Tin Mừng.
Phải dạy những gì mà lứa tuổi đó không thể không biết và chỉ dạy những gì mà lứa tuổi ấy có thể hiểu được. Cả hai thái độ bất cập và thái quá có thể đưa tới sai lầm về mặt chân lý, và lệch lạc lương tâm về mặt luân lý.
Giáo lý là công cuộc dài hạn phải tiếp tục suốt đời người tín hữu, không thể thu gọn trong vài ba tháng, với chủ đích duy nhất là để lãnh các Bí tích. Vì thế, không thể và cũng không cần nhồi vào óc các em, trong một thời gian ngắn, toàn bộ giáo lý. Trong lãnh vực đức tin không thể vội vã. Cần có thời gian hạt giống mới có thể mọc một cách bình thường.
g. Vận dụng trí nhớ:
- Vận dụng trí nhớ cần thiết về cả về phương diện sư phạm và giáo dục đức tin
* Sư phạm: hiểu và nhớ liên quan mật thiết với nhau và hỗ trợ nhau. Điều gì đã hiểu thì dễ nhớ. Ngược lại cũng đúng, có nhiều điều ban đầu người ta chưa hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng nếu được ghi nhớ trong ký ức thì với thời gian, dần dần sẽ khám phá ý nghĩa sâu xa của nó.
* Giáo dục đức tin: ký ức liên hệ đến đức tin, vì đức tin có chiều kích lịch sử. Tin là tin vào Thiên Chúa qua những Lời Ngài đã nói và những việc Ngài làm trong lịch sử. Do đó, tin cũng có nghĩa là ghi nhớ. Muốn tin và nuôi dưỡng đức tin cần phải nhớ những huấn giáo và những kỳ công của Thiên Chúa, ghi nhớ như Đức Maria đã làm ở Belem và Nagiarét, để suy niệm trong lòng. Nhờ ký ức và suy niệm, người tín hữu ngày càng hiểu và đi sâu vào ý định của Thiên Chúa hơn.
- Phương pháp giáo lý mới cải tiến việc vận dụng trí nhớ theo hai hướng
* Trong phương pháp quy nạp, câu kết luận là câu tóm lược và đúc kết tất cả phần diễn giảng. Vì thế, trong bài giáo lý, câu được chọn để học thuộc lòng chính là câu đúc kết bài giảng giáo lý. Như vậy lớp giáo lý không mở đầu bằng phần học thuộc lòng, nhưng kết thúc bằng phần này. Giảng bài trước, rồi tóm lược bài giảng trong một câu ngắn gọn, sau cùng cho các em ghi chép và học thuộc lòng câu này. Nếu thuộc và hiểu câu này, các em sẽ nhớ được những điểm chính yếu của bài giảng giáo lý.
* Những câu thuộc lòng thường được trích nguyên văn, hoặc là tóm lược một cách trung thực những lời Thánh Kinh hoặc Phụng vụ. Chỉ khi nào không có những lời Thánh Kinh hoặc Phụng vụ trực tiếp liên quan đến chủ đề giáo lý được trình bày thì mới cần sáng tác. Tuy nhiên những câu được sáng tác cần ngắn gọn, vững chắc về nội dung nhưng lại dễ hiểu, dễ nhớ. Tuyệt đối tránh những công thức trừu tượng, những danh từ quá chuyên môn vượt tầm hiểu biết của trẻ. Cần phải nắm vững nguyên tắc căn bản về sư phạm giáo lý: diễn tả những điều khó một cách dễ hiểu.
Các nguyên tắc chủ yếu có tính tổng quát. Giáo lý viên cần nắm vững, đồng thời còn phải tìm cách áp dụng nguyên tắc cho linh động và cụ thể. Điều này chỉ có thể đạt được nhờ thực hành và kinh nghiệm.
3- Kinh Nghiệm Con Người trong Huấn Giáo 
Việc dạy giáo lý phải giúp học viên trở nên ý thức hơn về những cảm nghiệm của họ và lượng giá chúng dựa theo ánh sáng giáo huấn của Hội Thánh, để sống một đời sống có trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa. 
Kinh nghiệm đức tin giúp cho người ta hiểu được các giáo thuyết. Chúng ta nhớ rằng Chúa Giêsu dùng những kinh nghiệm khác nhau để dạy chân lý Tin Mừng thế nào. Đối với những kinh nghiệm cá nhân, đó là nơi mà Thiên Chúa tự tỏ mình cho chúng ta, cho đến việc Ngài tỏ mình cách hoàn hảo qua việc Thiên Chúa Con mặc lấy bản tính nhân loại của chúng ta. Giáo lý viên có nhiệm vụ giúp học viên: thông qua kinh nghiệm sống hằng ngày có được nhãn quan của Tin Mừng và giáo huấn Hội Thánh. Chỉ khi đó việc dạy giáo lý mới đưa đến một đời sống Kitô sâu xa hơn. 
4- Vai Trò của Huynh Trưởng và Giáo Lý Viên 
Không phương pháp nào có thể thay thế việc phục vụ của các Huynh Trưởng hay giáo lý viên. Người Huynh Trưởng-giáo lý viên cộng tác với Chúa Thánh Thần xây dựng cho các em một đời sống thiêng liêng và huấn luyện các nhân đức. Huynh Trưởng-Giáo lý viên là một dụng cụ quan trọng mà nhờ đó Lời Chúa đến với các em. Vì thế, đời sống của Huynh Trưởng-giáo lý viên đừng là trở ngại hay phản chứng.
Một Huynh Trưởng-giáo lý viên tốt sẽ ý thức sâu sắc nhu cầu nuôi dưỡng đức tin của mình qua việc học hỏi và cầu nguyện. Cầu nguyện cho mình và cho các thụ nhân. Từ đó tương quan cá nhân giữa giáo lý viên và người được giáo hoá sẽ có tác động tích cực và sâu đậm. 
5- Sự Tham Gia Tích Cực của Học Viên 
Để việc dạy giáo lý đạt được mục đích cao quý tối hậu, là sự hiểu biết và lòng yêu mến Thiên Chúa sâu đậm, thì người thụ huấn cũng được mời gọi và nỗ lực đáp trả tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách tích cực, linh động. Huynh Trưởng-Giáo lý viên nên nghĩ ra các hình thức như: những chiến dịch thi đua, những trò chơi  chuyển tải nội dung bài giáo lý Thánh Kinh để các em tích cực tham gia. Nhưng trên hết và quan trọng hơn cả là tập cho các em siêng năng cầu nguyện, tích cực tham dự các việc phụng tự chung, tham dự các Bí Tích, và nỗ lực sống bác ái.