• Trang chủ

HUYNH TRƯỞNG NHÀ GIÁO DỤC THIẾU NHI

Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông tuôn đến cùng Ngài trong nơi hoang vắng, Ngài chạnh lòng thương vì họ bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt, và Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều“   (Mc 6,34-44).

DẪN NHẬP
Tài liệu Hướng Dẫn dành cho Giáo lý viên năm 1992 của Thánh Bộ Phúc Âm hoá các dân tộc có những chỉ dẫn khá chi tiết về việc huấn luyện giáo lý viên, theo những tiêu chuẩn sau đây: Huấn quyền của Hội Thánh luôn đòi hỏi và nhất quyết đòi hỏi sự chuẩn bị cho giáo lý viên, vì mọi hoạt động tông đồ “nếu không được đảm nhận bởi những người có đào tạo, thì chắc chắn sẽ thất bại”.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II minh định: Để bảo đảm cho sứ vụ của Hội Thánh có nhân sự xứng hợp, cốt thiết phải có chương trình đầy đủ và cơ chế thích hợp để đảm nhận việc huấn luyện giáo lý viên về các mặt, từ huấn luyện nhân bản đến huấn luyện thiêng liêng, tín lý, tông đồ và chuyên môn” (Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế, 73; Tông huấn Người Kitô hữu giáo dân, 60).
Thư Chung 2007 lấy giáo dục Kitô giáo làm chủ đề. Điều đó thật đúng lúc khi mà khắp nơi trên thế giới, giáo dục đang là vấn đề thời sự nóng bỏng và đặc biệt tại Việt Nam, nhiều người cho rằng đã đến lúc phải cương quyết nói “Không” với tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục. 
 1 TỔNG QUAN VỀ GIÁO DỤC 
1. Vài nhận định
Giáo dục là gì? Giáo là dạy dỗ, Dục là nuôi dưỡng,nhằm đào tạo những con người toàn diện về ba mặt: Trí, Đức, Thể. Giáo dục là hướng dẫn, chỉ dạy để giúp cho một người nhận thức được điều đúng sai, tốt xấu để họ hoàn chỉnh con người mình. Giáo dục không phải là nhồi nhét, áp đặt mà phải dùng tình thương chân thật và phải có thời gian giúp con người phát triển về nhân cách, tư duy để họ sống đúng với phẩm giá con người. Vì con người là một huyền nhiệm, nên giáo dục không phải là giải quyết một vấn đề.
Người xưa vẫn quan niệm: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Đạo đức được đặt trên tri thứùc; vì thế Giáo dục đạo đức là bộ phận quan trọng có tính nền tảng của giáo dục, có nhiệm vụ rèn luyện lý tưởng, ý thức, hình thành ở các em những thói quen, những phẩm chất đạo đức.
Cần có giáo dục toàn diện: cả 3 mặt đức dục, trí dục và thể dục. Một người tài giỏi thông minh nhưng thiếu đạo đức sẽ nguy hiểm cho xã hội. Tiến bộ khoa học không đi đôi với tiến bộ về đạo đức sẽ dẫn thế giới đến hủy diệt. Do đó, Con người cần được phát triển về mọi mặt để trở nên con người tự do và có tinh thần trách nhiệm, vừa biết tìm chân lý vừa biết tranh đấu bảo vệ chân lý. Tìm chân lý đích thực mọi kitô hữu cần phải lĩnh hội nền giáo dục Kitô giáo.
Mục đích của nền giáo dục Kitô giáo không chỉ là rèn luyện nhân cách con người thành hữu ích đối với bản thân, gia đình và xã hội, mà còn là giúp con người sống xứng đáng với tư cách con Thiên Chúa để mai sau trở thành công dân nước trời. Sứ mạng đó được khơi nguồn từ Chúa Cha, được thực hiện nơi Chúa Con và được kiện toàn nhờ Chúa Thánh Thần. (Thư chung HĐGMVN 2007).
2. Công tác giáo dục 
a. Nhà giáo dục .
Ai là người có trách nhiệm giáo dục ?
Cũng như Đức Giêsu được sai đến với muôn dân,Giáo hội cũng có sứ mạng đem Tin Mừng đến cho mọi người. Mỗi Kitô hữu phải là nhà giáo dục đức tin, bởi vì qua bí tích rửa tội, chúng ta được mời gọi tham gia vào công trình giáo dục. Theo lời Đức Gioan Phaolô II, “mỗi chúng ta vừa là đích điểm, vừa là khởi điểm của việc huấn luyện: chúng ta càng tự rèn luyện, càng có khả năng huấn luyện người khác” (TH/KTHGD 7)
Giáo hội có trách nhiệm lớn trong công tác giáo dục Kitô giáo, nhưng các nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu vẫn là cha mẹ, ông bà, anh chị em trong gia đình, kế đến là thầy dạy, bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp và cộng đồng Kitô hữu.
b. Môi trường giáo dục
- Gia đình là Giáo Hội tại gia, là trường học tự nhiên và căn bản trong nền giáo dục Kitô giáo. Mọi thành viên của gia đình, ông bà, cha mẹ và các anh chị em sống đạo nhiệt thành, làm thành truyền thống đức tin gia đình. Nơi đây, đức tin được truyền thụ qua những lời cầu nguyện, lời nhủ bảo, đặc biệt trong những biến cố vui buồn của cuộc sống và qua những mẫu gương đức tin. Gia đình còn là “chiếc nôi của sự sống và tình yêu” (GHXH/GH 209) giúp các phần tử gia đình cảm nghiệm tình yêu và lòng trung thành của Thiên Chúa, đồng thời cũng giúp tập các nhân đức, xây dựng mối tương quan nhân vị trong xã hội. 
Về phương diện tự nhiên, gia đình là nơi nuôi dưỡng chăm sóc phần xác cho bé, bé được luyện tập những kỹ năng: tập nghe, tập nói, tập đi, tập sử dụng các đồ vật …, giúp trẻ nhận ra mối tương quan với người khác.
Gia đình còn là nơi bắt đầu hình thành nhân cách của bé. Từ lứa tuổi tiền học đường tới trưởng thành các em được tập cho biết đón nhận nhau, biết hy sinh, giúp đỡ, yêu thương vô vị lợi,...cha mẹ giúp trẻ vượt qua những giai đoạn quan trọng trong đời cách tốt đẹp thì bé mới trưởng thành được. Những khủng hoảng ấu thơ sẽ đi theo bé và tác hại trên đời bé. Một khủng hoảng không vượt qua được, sẽ giữ bé ở lại trong tình trạng ấu trĩ tâm lý, suy nghĩ phản ứng lệch lạc so với lứa tuổi của mình.
- Nhà trường không chỉ là nơi để các em trau dồi kiến thức văn hóa mà còn là môi trường các em sống mối tương quan với bạn bè, thầy cô. Là nơi hình thành những mối tương quan xã hội. Thầy cô và bạn bè là những người tiếp nối giúp việc hình thành nhân cách còn dang dở nơi em. Ảnh hưởng của thầy cô và bạn bè cũng rất quan trọng. Kết quả: có thể em sẽ biết sống yêu thương, tự giác, tự lập theo phương pháp suy tư và cung cách hành động của mình hay có thể bị lệ thuộc người khác và bị gương xấu lôi kéo. 
- Tại giáo xứ: đức tin được thông truyền nhờ việc giảng dạy và việc cử hành phụng vụ. Với những lớp giáo lý cha xứ cùng với các giảng viên sẽ chịu trách nhiệm khai tâm Kitô giáo và huấn giáo cho thiếu nhi chuẩn bị lãnh các bí tích và sống đức tin. Tại đây, các em có môi trường để củng cố và thể hiện đức tin với các thành phần khác của giáo xứ, được cuốn hút vào các giờ kinh lễ, phụng vụ, bí tích.(x. TN/GD 4). Chính khi đoàn kết yêu thương nhau và cầu nguyện chung với nhau, đức tin của Kitô hữu được nuôi dưỡng và củng cố.
3. Thực trạng nền giáo dục hôm nay 
a. Bối cảnh xã hội 
Hàng ngày qua báo chí, truyền hình chúng ta vui mừng vì tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tạo cho con người nếp sống cao về mọi mặt: những sản phẩm dinh dưỡng không chỉ giúp các em tăng trọng, tăng sức khỏe, mà còn tăng chỉ số thông minh. Nhiều học sinh đoạt giải trong các kỳ thi quốc tế. Nhưng nếu quá chú tâm vào những tiến triển vật chất như công nghệ, khoa học, của cải, thì hầu như người ta xem nhẹ những tiến triển tinh thần như các giá trị đạo đức, văn hoá, tôn giáo.
Thực ra để hình thành một kỷ nguyên mới về phát triển, thì không chỉ các giá trị vật chất được khuyến khích mà cần phải chú trọng đến sự bảo tồn và phát triển các giá trị tinh thần, trong đó không thể thiếu các giá trị tôn giáo. Nhưng buồn thay, vì mải chạy theo những trào lưu xã hội, những cái gọi là văn minh thời đại (thời các loại “siêu” được tôn vinh: siêu sao, siêu tốc, siêu lợi nhuận …) thì những giá trị tinh thần chỉ còn là thứ yếu.
Xuất hiện các loại tệ nạn: hối lộ, tham nhũng, gian dối trong mọi lĩnh vực ngay cả lĩnh vực giáo dục thì thử hỏi việc giáo dục các em có thể đạt kết quả tốt không?  Việc tham lam chạy theo lợi nhuận tiền bạc đang khiến nhiều người bán rẻ lương tâm, phá vỡ truyền thống gia đình, hủy hoại tình người.
Phương tiện truyền thông: Học sinh, sinh viên hiện nay tiếp cận với nền khoa học kỹ thuật hiện đại, thế giới tỏ ra nhỏ bé, gần gũi. Thông qua Internet, người ta có thể biết ngay một sự kiện vừa xảy ra ít phút trước đó bên kia trái đất. Tuy nhiên, thế hệ @ này có thể bị lâm nguy vì những thông tin kém đạo đức. 
b. Nhà trường: 
Là nơi các em trải qua nhiều thời gian nhất, môi trường sư phạm rất tốt, nhưng vẫn đang có những báo động: Hối lộ để chạy trường, những gian dối trong giáo dục do bệnh thành tích, Chương trình học tạo cho các em khá nhiều áp lực, khiến có em bị Stress.. Đáng tiếc hơn nữa, Giáo Hội công giáo, với tư cách là tổ chức tôn giáo, đành phải đứng bên lề sự nghiệp giáo dục của xã hội Việt Nam, không có quyền nhập cuộc, đành đóng vai một quan sát viên bất đắc dĩ. (TC.HĐGM số 15).
c. Gia đình: 
Do ảnh hưởng của não trạng duy kinh tế, nền giáo dục gia đình đang bị khủng hoảng. Chủ nghĩa khoa bảng, khiến nhiều phụ huynh lao vào đầu tư cho con em mình đủ mọi kiến thức để trở thành kỹ sư, bác sĩ mà ít quan tâm đến việc giáo dục nhân bản, giáo dục đức tin cho chúng. Vì luôn bận rộn với vấn đề kinh tế, nên trong gia đình mọi người không còn thời gian cho nhau và cầu nguyện chung với nhau nữa. 
Một số cha mẹ chạy theo niềm vui riêng mình, hậu quả là: gia đình bị chia cắt; người bị tổn thương nhiều nhất chính là các em. Trẻ em không có tội tình gì, chỉ vì người lớn sai lầm mà các em phải gánh chịu hậu quả.
d. Giáo hội
Với những mối quan ngại trên, Giáo dục kitô giáo chỉ còn trông chờ nơi các giáo xứ. Nhưng trở ngại là:
+ Nhiều Cha xứ không quan tâm đủ, không có nơi xứng hợp cho công tác giáo lý.  
+ Mỗi tuần huynh trưởng giáo lý viên chỉ có tối đa hai giờ để tiếp xúc gặp gỡ các em vào giờ học giáo lý. Phụ huynh đưa các em đến các lớp giáo lý chỉ mong chúng được lãnh nhận các bí tích cho đúng luật rồi sau đó buông trôi, không cần biết giáo lý là gì nữa.
+ Có những huynh trưởng-giáo lý viên chưa được đào tạo đúng mức, chưa hiểu rõ vai trò của mình, khiến giờ giáo lý buồn tẻ hay chỉ còn là giờ nhồi nhét những kiến thức thần học.
Làm sao các em có thể yêu thích đến nhà thờ khi nơi đó chỉ toàn những gương mặt nghiêm khắc với những luật lệ, cấm đoán, kết tội và hình phạt? Huynh trưởng phải phản ánh được dung mạo Đức Giêsu Kitô, người Thầy hiền lành và chan chứa tình thương, luôn quan tâm, lắng nghe, cảm thông và chia sẻ những ưu tư của từng em, bằng trái tim yêu thương của Chúa. Huynh trưởng phải giúp các em tin tưởng  tìm đến với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh vui buồn của đời sống trong niềm tin yêu phó thác. Nhờ sự trợ giúp và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các em ngày càng lớn càng trở nên giống Đức Kitô
- Công tác giáo dục đòi hỏi nhiều kiên nhẫn: chỉ vận dụng tài năng, kiến thức và lòng nhiệt thành bản thân thì chưa đủ, người giáo dục cần có một tấm lòng, một đời sống nội tâm sâu sa, vững vàng để khích lệ, nâng đỡ, an ủi, giúp định hướng đời sống cho các em, giúp các em sống mỗi ngày hoàn thiện hơn, có ý nghĩa hơn. 
Cùng với giáo xứ, các tổ chức, các đoàn thể Công Giáo, phong trào TNTT góp phần không kém quan trọng trong việc giáo dục đức tin cho thiếu nhi và giới trẻ.  
II. HUYNH TRƯỞNG, NHÀ GIÁO DỤC THIẾU NHI 
1. Sứ mệnh giáo dục của huynh trưởng 
- Huynh trưởng là người tiếp nối sứ mệnh Chúa Giêsu, nhận trách nhiệm điều khiển, hướng dẫn và giáo dục các em Thiếu Nhi nên người tốt, nên con Chúa theo Tôn chỉ, Mục đích của Phong Trào TNTT.
- Huynh trưởng là người tình nguyện dấn thân cho Phong Trào để phục vụ Chúa và các em thiếu nhi trong sứ mệnh đặc biệt của việc rao giảng Tin Mừng. Sứ mệnh cao cả ấy làm cho Huynh trưởng trở thành người cộng tác với Chúa trong việc hoàn thiện hóa con người. Đó là công việc rất quan trọng và cần thiết để xây dựng và mở rộng nước Chúa. Huynh Trưởng trong phong trào TNTT có sứ mệnh tham gia thực hiện mục đích của phong trào.
Việc thực hiện mục đích của phong trào làm cho huynh trưởng thành những nhà giáo dục: Sứ mệnh giáo dục là sứ mệnh có tính siêu nhiên:
a. Siêu nhiên tự nguồn gốc: Vì là sứ mệnh Chúa Cha đã trao cho Chúa Giêsu, Chúa Giêsu trao lại cho Hội Thánh, “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. (Ga 20,21).
Trước khi về trời, Chúa Giêsu trao cho các tông đồ mệnh lệnh cuối cùng, là loan báo Tin Mừng cho muôn dân, và dạy họ tuân giữ tất cả những gì Người đã truyền.
b. Siêu nhiên trong chủ đích: Sứ mệnh này nhằm đem Chúa Giêsu đến với các em và làm cho Chúa Giêsu lớn lên trong tâm hồn các em. Trọng tâm của việc dạy giáo lý là Đức Kitô, là con người Chúa Giêsu thành Nadareth, “Con Một đến từ Đức Chúa Cha… đầy ân sủng và chân lý, “Đấng đã chịu nạn, chịu chết vì chúng ta và giờ đây, sau khi sống lại, đang ở cùng chúng ta”. Chính Chúa Giêsu, Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”.
Sứ mệnh cao cả ấy làm cho Huynh trưởng trở thành những người cộng tác với Chúa trong kế hoạch mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa.
2. Huynh trưởng dạy gì cho các em?
a. Giáo dục siêu nhiên 
Tài liệu Hướng dẫn tổng quát về việc dạy Giáo lý của Thánh Bộ Giáo Sĩ ban hành ngày 15.8.1997 xác định: mục đích và nhiệm vụ việc giảng dạy Giáo lý như sau:  “Mục đích quyết định của việc giảng dạy Giáo lý không chỉ là giúp người học giáo lý tiếp cận với Đức Giêsu Kitô mà còn là giúp người ấy đi vào mối tương quan hiệp thông, mật thiết với Người” (số 80). 
Các nhiệm vụ căn bản của việc giảng dạy Giáo lý là: 
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiểu biết về đức Tin: biết Chúa Kitô và kế hoạch của Chúa Cha mà Chúa Giêsu biểu lộ. Việc đào sâu hiểu biết về đức Tin đem lại cho cuộc sống ánh sáng mới, nuôi dưỡng đời sống đức Tin, giúp hiểu các lý lẽ của đức tin trong cuộc sống. 
+ Giáo dục về phụng vụ: Việc dạy Giáo lý không chỉ giúp thiếu nhi hiểu ý nghĩa phụng vụ và các bí tích mà còn phải giúp các em tham dự phụng vụ cách tích cực và siêng năng, huấn luyện các em về “cầu nguyện, tạ ơn, sám hối; về sự tin tưởng phó thác trong cầu nguyện và về ý nghĩa cộng đoàn…”
+ Huấn luyện về luân lý: Việc giảng dạy Giáo lý phải giúp cho các em biến đổi nội tâm “từ con người cũ sang con người mới trong Đức Kitô” là Đấng yêu thương, luôn dạy dỗ và cứu chữa. Như Giakêu, người phụ nữ Samari, … được biến đổi sau khi gặp Chúa.
+ Dạy cầu nguyện: Theo gương Chúa Giêsu, huynh trưởng dạy các em cầu nguyện với những tâm tình mà Người đã diễn tả trong lời cầu nguyện với Cha: đó là tâm tình thờ phượng, ngợi khen, cảm tạ, tin cậy, phó thác, sám hối và cầu xin, ngưỡng mộ trước vinh quang của Cha trong Kinh Lạy Cha, kinh mà Đức Giêsu đã dạy các môn đệ và là mẫu mực của kinh nguyện Kitô giáo (tlđd, só 85). 
+ Các nhiệm vụ khác của việc giảng dạy giáo lý
* Giáo dục đời sống cộng đoàn: Giáo huấn của Đức Giêsu về đời sống cộng đoàn được Mátthêu tường thuật lại trong Tin Mừng, nêu lên một số thái độ: tinh thần đơn sơ khiêm tốn (Mt 18,3); sự quan tâm đến những người bé nhỏ nhất (Mt 18,6); đặc biệt quan tâm đến những người lạc đường (Mt 18,12); việc sửa lỗi huynh đệ(Mt 18,15); cầu nguyện cộng đoàn (Mt18,19); sự tha thứ cho nhau (Mt 18,22); Tình yêu huynh đệ thống nhất tất cả các thái độ kể trên” (Ga 13,34).
* Khai tâm về truyền giáo: Khi kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, Tấm Bánh bẻ ra cho đời, các em cũng ý thức mình là tấm bánh cho người khác. Trong môi trường sống các em sẽ truyền giáo bằng những hy sinh giúp đỡ bạn bè, lối xóm. Đời sống gương mẫu ngoan ngoãn của các em có giá trị truyền giáo hữu hiệu.
Tóm lại, huynh trưởng giúp các em phát triển về mọi phương diện của đức tin: sự hiểu biết, cầu nguyện, phụng vụ và đời sống nhân đức. Sau cùng huynh trưởng giúp các em biết dâng mình cho Chúa, nhất là ơn gọi mà Thiên Chúa mời gọi  các em và sống đúng theo ơn gọi đó. (ibid. số 144) ơn gọi. 
b. Giáo dục tự nhiên.
+ Giáo dục nhân bản: Huynh trưởng có ảnh hưởng trong việc hình thành nhân cách của các em. Ởû lứa tuổi nào: Ấu, Thiếu, Nghĩa, các em cũng có những vấn đề riêng. Trẻ còn đang tiến triển, đang lớn lên một cách toàn diện và liên tục. Tâm hồn trẻ là một thế giới riêng biệt không giống người lớn. Với hiểu biết đại cương về khoa tâm lý, huynh trưởng không làm cản trở sự hình thành nhân cách nơi các em.
 Mẫu mực nhân bản mà huynh trưởng phải giới thiệu cho các em là Chúa Giêsu trong Tin Mừng, hướng dẫn các em nhận biết: Chúa Giêsu là người thật, Người luôn làm việc và kết hiệp với Chúa Cha, luôn thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Con Người đó có đủ những đức tính nhân bản. Chúa Giêsu là người khoẻ mạnh: Ngài đi rao giảng khắp nơi, làm việc không biết mệt. Ngài còn vác Thập giá nặng sau khi bị roi đòn. Ngài dũng cảm, cương quyết lên Giêrusalem chịu nạn (Mt 16,22-23). Sống lạc quan, tự lập: “chim có tổ, chồn có hang, con người không có chỗ tựa đầu”. 
Nội tâm luôn yên tĩnh, khôn ngoan, điềm đạm, tự do trong hành động, tiếp xúc với mọi hạng người, không lệ thuộc dư luận: Tranh cãi về ngày Sabat, gặp gỡ người phụ nữ Samari. “Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa…” (Lc 20,25). Những lời Ngài nói vừa làm kinh ngạc, vừa làm say mê cả đối thủ. Các vệ binh đi bắt Chúa nói “Xưa nay chưa có ai nói năng như người ấy” (Ga 7,46).
Đức tính nổi bật nhất và là bản chất của Chúa Giêsu là Đức yêu thương: Chúa Giêsu dễ mến và thu hút mọi người, đông đảo trẻ em đến với Người (Mc 10,13-15). Ngài động lòng thương rao giảng, hoá bánh để nuôi dân, thương chữa những người bệnh tật, Chúa Giêsu đã sống yêu thương và dạy chúng ta làm như thế. Điều răn mới Người ban cho chúng ta là “Hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu” (Ga 13,34).
+ Huấn luyện lương tâm: không chỉ là giảng dạy những mệnh lệnh của hệ thống luật luân lý nhưng còn là tập cho các em hồn nhiên lắng nghe lòng mình phán đoán thiện ác. Khi có lương tâm ngay thẳng, con người sẽ làm chứng cho chân lý, mạnh dạn đưa ra những chủ trương và đường lối của mình, trước những trào lưu đi ngược lại với giáo huấn Tin Mừng và đạo đức xã hội.
+ Xã hội tính: Con người không là một ốc đảo. Giáo dục Kitô giáo góp phần cổ võ tình liên đới, làm cho con người có trách nhiệm với nhau, trách nhiệm đối với xã hội và công ích, cùng xây dựng cuộc sống tốt đẹp, an bình: biết tương thân tương ái, yêu thương giúp đỡ, cứu giúp nhau khi gặp hoạn nạn. Tuân hành những luật lệ chung của chính quyền.
 + Truyền thống văn hóa của dân tộc: “Dân tộc chúng ta luôn tự hào về tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo. Truyền thống ấy nếu trong quá khứ đã góp phần làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và sản sinh những danh nhân làm vẻ vang đất nước, thì nay phải trở thành một trong những tiêu chí của nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam” (Thư chung HĐGMVN 2007). Tuỳ theo lứa tuổi và tuỳ theo môi trường sinh hoạt như: lớp giáo lý, sa mạc… huynh trưởng dạy các em kỹ năng sống, nét đẹp văn hoá xã hội.
3. Việc huấn luyện huynh trưởng giáo lý viên 
Người ta không thể cho cái mình không có, Mù dắt mù sao được (Lc 6,39 1; Cor 7,12). Huynh trưởng phải học và sống những gì mình dạy, cũng như giáo huấn người khác bằng sự tự rèn luyện mình.
- Huynh trưởng giáo lý viên cần được đào tạo toàn diện” và “chuyên biệt”. Toàn diện nghĩa là bao gồm mọi chiều kích của nhân cách giáo lý viên. Chuyên biệt nghĩa là phù hợp với các đặc tính của công việc mà giáo lý viên được mời gọi như loan báo Lời Chúa cho mọi người xa gần…. (Thông diệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế, 73).
- Trưởng thành về mặt nhân bản: Lãnh vực nhân bản bao gồm: sự quân bình tâm sinh lý, sức khỏe tốt, có trách nhiệm, thật thà, năng động, đạo đức trong sinh hoạt nghề nghiệp và gia đình, tinh thần hy sinh, mạnh bạo, kiên trì v.v… Huynh trưởng là người xây dựng hòa bình; có khả năng thăng tiến, phát triển, linh hoạt văn hóa xã hội ; nhạy bén trước vấn đề công lý, y tế v.v… Huynh Trưởng phải là kitô hữu trưởng thành, là công dân tốt, có đời sống nhân bản vững chắc, kiến thức cần thiết và đạo đức tốt. Có như thế Huynh Trưởng mới là tấm gương sáng cho các em noi theo…. “lời nói lung lay gương bày lôi kéo”.
- Huynh trưởng-Giáo lý viên cũng “phải được huấn luyện để thống nhất đời sống của mình, đời sống của một người vừa là phần tử của Giáo hội, vừa là công dân của xã hội loài người”. (Tông huấn Người Kitô hữu giáo dân của Đức Gioan Phaolô II, số 59). Cuộc sống của huynh trưởng nơi gia đình, ngoài xã hội, cũng như tại giáo xứ phải là một. Huynh trưởng phải hy sinh cho đi cả con người của mình, phải là hạt lúa mì tự nguyện gieo vào lòng đất để tự hủy đi những tính khí, tình cảm, thói  quen … gây trở ngại cho công tác giáo dục. 
- Huynh Trưởng phải có hiểu biết và sống giáo lý, có khả năng sư phạm để có thể truyền đạt các chân lý của Giáo hội dạy, một cách chính xác và rõ nét. “Chuẩn bị về nội dung giáo lý cho giáo lý viên là điều tối cần thiết, nhằm giúp họ nắm vững nội dung cốt yếu của giáo lý công giáo, truyền đạt rõ ràng và sống động, không sai sót hay lệch lạc, như vậy các giáo lý viên phải có trình độ văn hóa căn bản, thiếu trình độ văn hóa sẽ nẩy sinh nhiều khó khăn. Việc đào tạo thần học phải gần gũi với kinh nghiệm nhân bản. Giáo lý viên không chỉ biết những nguyên tắc thần học mà còn biết khám phá khoa học trần thế, đặc biệt là khoa tâm lý học và khoa học xã hội cũng như  đem ra thực hành cốt sao cho các thiếu nhi đến gần họ … 
- Đời sống của Huynh Trưởng phải phản ảnh được dung mạo Chúa Giêsu, người Thầy hiền lành và chan chứa tình thương, luôn biết quan tâm, lắng nghe, cảm thông và chia sẻ những ưu tư của từng em bằng trái tim yêu thương của Chúa. Huynh Trưởng phải là người có uy tín, không những là thầy mà còn là một người bạn, để các em có thể gửi gắm tình cảm, những suy tư của các em..., để những lúc gặp khó khăn các em sẽ đến với Huynh Trưởng, nhờ đó ta dẫn các em đến với Chúa.
- Sứ mạng của người giáo dục đức tin đòi hỏi giáo lý viên phải có một đời sống thiêng liêng sâu sắc. Đây là khía cạnh cao nhất và quý giá nhất của nhân cách; 
do đó, cũng là chiều kích ưu tiên của việc huấn luyện. Giáo lý viên đích thực là một vị thánh (xem Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế của Đức Gioan Phaolô II, 90). Trọng tâm đời sống thiêng liêng của giáo lý viên là sự hiệp thông sâu xa trong niềm tin vào Đức Kitô và mến yêu Ngài, Đấng đã mời gọi và sai họ đi. Huynh Trưởng phải luôn nhớ nền tảng cho việc đào tạo lý trí, tình cảm của một con người là đạo đức. Không có đời sống đạo đức không thể là một nhà giáo dục các em Thiếu Nhi.
4. Thực hành giảng dạy 
Không phải cứ tham gia các khoá huấn luyện là trở thành nhà giáo dục, huynh trưởng phải xác định ơn gọi của mình, xem mình có yêu mến thiếu nhi để có thể hy sinh thời gian, sức khoẻ, tài năng phục vụ cho các em. Huynh trưởng cần học nơi Chúa Giêsu, người Mục Tử nhân lành về Tinh thần phục vụ: “Ta đến để phục vụ chứ không phải được phục vụ”; Tinh thần khiêm tốn: “Ai muốn làm đầu hãy trở nên rốt hết”. Chúa Giêsu, Người Mục tử nhân lành biết các chiên và hy sinh cho chiên “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta”. (Ga 10,14).
Huynh Trưởng phải có lòng yêu trẻ thực sự, chân thành, bao dung, vì trẻ dễ quên và hay sai lỗi. Chính tình thương là phương thế hoán cải, giáo dục trẻ hữu hiệu. Vì “tình yêu có sức hoán cải tâm hồn hơn lòng sốt sắng nhiệt thành, hơn mọi kiến thức cũng như tài hùng biện của ta” (P. Faber). - Huynh Trưởng phải nhớ trẻ em cũng có một nhân vị. Giáo dục nhắm đến con người của trẻ. Do đó phải để ý đến tinh thần cũng như thể chất của các em, phải yêu thương và tôn trọng phẩm giá các em trong khi giáo dục, lúc khen thưởng cũng như lúc kỷ luật. 
Tình yêu tạo được sự tín nhiệm, yêu mến và kính trọng của trẻ, giúp ta hy sinh dấn thân phục vụ, giúp ta chịu đựng mọi sai lỗi, thiếu sót… của trẻ, nhưng vẫn bình tĩnh để sửa chữa. Tình yêu giúp ta đón nhận từng em một và có những săn sóc phù hợp cho các em.
Xã hội ngày nay thường có hiện tượng” bằng thật, học giả”. Trong phong trào TNTT, hôm nay chúng ta cũng cần khẳng định: Huynh trưởng không phải là một học vị, hay một chức tước cần nhất thời đạt cho bằng được. Không phải chỉ cần đi sa mạc và sau khi được thăng cấp là huynh trưởng đã hoàn tất việc huấn luyện, đã có thể giáo dục các em.
Giáo dục là cả một công trình lâu dài không thể hoàn thành ngay. Người trẻ cần được huấn luyện mỗi ngày trở nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện (xem TC HĐGM số 38).